Thứ Năm, 27 tháng 12, 2018

Hai tiếng đàn trên đất cù lao


Quê nội tôi ở Chợ Mới, nên khi nhà văn Võ Diệu Thanh và cây viết trẻ Lê Quang Trạng “rủ rê” làm chuyến điền dã cùng một số anh em văn nghệ sỹ An Giang về cù lao Giêng tôi sốt sắng nhận lời ngay. Lâu rồi không có dịp về quê nội. Cũng chẳng còn cô bác nào để về thăm. Nội tôi sinh năm 1870, ông có đến mười hai người con trai gái. Giờ tất cả cũng đã theo ông về núi. Thời gian chỉ hơn một ngày nên chắc sẽ không thể về Kiến An, thôi thì cứ “vờ như là quê, đã về!”, một chuyến cùng bạn bè văn chương “đã đời con chim trời” là vui rồi.
Lúc qua đò Thuận Giang tôi rất muốn chạy về giồng Ông Tỏ thăm lại quê nội, nhưng đã có hẹn nên chúng tôi đành nhắm hướng thị trấn Mỹ Luông trực chỉ. Đường quê giờ đã được nhựa hóa, rợp bóng mát. Những ngôi nhà đã khang trang hơn, những tiện nghi sinh hoạt hiện đại hơn. Đất cù lao màu mở phù sa, vườn tược chạy dài, một màu xanh tít tắp. Mùa này những con kinh chằng chịt xuôi ngược dọc theo các tuyến lộ liên ấp đang đầy ắp nước. Làng quê Chợ Mới giờ khác xưa rất nhiều. Hồi tôi còn nhỏ, về Chợ Mới đâu đâu cũng nhìn thấy tre. Tre ngoài vườn, tre ở cạnh nhà. Cây tre gắn liền với ruộng lúa và nếp nhà lá đơn sơ. Nhưng giờ đây sự thơ mộng của cây tre đã là dĩ vãng. Người nông dân đã sống thực dụng hơn với đất, chọn cây xoài để làm bạn, phát triển kinh tế nông thôn. Đâu đâu cũng cây xoài. Xoài ở hai bên đường, xoài ở trước sân và xoài ở trong những khu vườn liên tiếp nhau trải dài xanh mướt.
 Sau khi ghé thăm nhà thờ họ Nguyễn cổ kính 120 tuổi, thăm mấy vườn xoài đang kỳ thu hoạch và chạy một quãng dài đường quê, chúng tôi đến nhà ông Ba Ẩn ở xã Bình Phước Xuân, một cầm thủ đờn ca tài tử có tiếng trong vùng. Ông là chủ của mấy vườn xoài rộng lớn. Ông bỏ nữa chừng show giúp vui tiệc cưới để về tiếp đoàn văn nghệ sĩ. Ông đón chúng tôi trong căn nhà xây rộng rãi, thoáng mát nằm giữa mênh mông vườn xoài.
Làng quê thật thanh bình. Bửa cơm trưa với món mắm kho, rau đồng, bông súng do nhà văn Võ Diệu Thanh dụng công đi chợ thật đậm đà hương vị đồng quê Tây Nam bộ. Ông Ba rất vui vì có khách tới thăm. Ông mang đàn ra chơi cùng chúng tôi. Đàn guitar, đàn sến, đàn kìm, cây nào ông cũng giỏi, nhưng sở trường của ông là đàn kìm. Hôm nay ông đánh cây sến – “Để cho nó có không khí hơn, cây kìm buồn lắm” – Ông nói.
Buổi trưa ở đây thật yên ắng. Con đường rải sỏi nhỏ phía trước nhà ông thỉnh thoảng mới có xe hai bánh vụt qua. Hôm nay ông Ba vui, ông uống với chúng tôi rất nhiệt tình. – Mấy em làm anh nhớ lại thời trai trẻ của mình quá. Nào dô! Trong men rượu ngà say, tiếng đàn của ông Ba Ẩn tạo nên một cảm giác yên bình, thanh thản lạ lùng. Không hoa mỹ, không nỉ non, tiếng đàn của ông thong thả, nhẹ nhàng thanh thoát. Từng chữ đờn buông ra trầm tỉnh, chuẩn mực. Ông đàn cho chúng tôi hát. Chúng tôi không biết nhiều bài bản, nên khi chúng tôi “hết bài” ông chuyển sang độc tấu. Tồn u, ú liu xề, liu ú xáng liu… Bài Lưu thủy trường, bài Nam xuân… Khi khoan, khi nhặt, khi trầm, khi bỗng. Những nốt nhạc quyện vào nhau, nối tiếp nhau dào dạt như sông nước Cửu Long. Cái song loan dưới chân ông cứ thong dong nhịp nhàng, chắc nịch. Ở những chổ nhịp ngoại, tiếng “cốc” rớt xuống thật chắc chắn, tin cậy mà cũng không kém phần điệu nghệ. Mấy mươi năm làm nhạc công đàn kìm, giữ song loan trong dàn nhạc đờn ca tài tử đã rèn luyện cho ông cái cảm giác về trường độ thật chuẩn xác. Mỗi nhịp của đàn ca tài tử được tính tương đương là một nốt trắng. Song loan có vai trò giữ nhịp. Tuy nhiên, không phải nhịp nào song loan cũng gõ. Vì vậy nếu người giữ song loan không vững nhịp độ, lúc chậm lại, lúc dồn lên sẽ gây khó cho ban nhạc. Còn tiếng song loan của ông Ba Ẩn thì cứ đều đặn và chắc chắn, cần mẫn giữ nhịp, làm cái khung vững chải để tiếng đàn thỏa chí tung hoành.
- Anh bắt đầu theo nghiệp đờn ca tài tử khi chỉ mới 14 tuổi – Ông “khà” một cái sau khi đặt ly rượu vừa uống cạn xuống bàn. Ông nói mình từng đi đàn cho đoàn Cải lương được mấy năm trời. Đến lúc cha ông buộc ông về quê cưới vợ, chăm sóc ruộng vườn thì ông đành phải giả từ cái mộng làm nhạc công chuyên nghiệp. Nhưng cái máu của kẻ tài tử vẫn luôn chảy trong ông. Sau giờ đồng áng, vuờn tược ông lại miệt mài với những cây đàn, với hò, xự, xang, xê, cống. Nhờ trời, ông cũng có đất đai, của ăn của để nên có điều kiện để nuôi dưỡng đam mê của mình. Mấy mươi năm gắn bó với đờn ca tài tử, giờ ở tuổi thất thập ông vẫn xách đàn đi làm show, hoặc tham gia các hội thi, hội diễn địa phương.    
Tiếng đàn của ông Ba không quá vui mà cũng chẳng quá buồn. Đó là tiếng đàn của người đã nhìn ra cái lẽ của sự sống nên ung dung, tự tại. Cũng tươi sáng hào sảng nhưng không phải là rôm rả, hời hợt. Cũng dìu dặt mượt mà, nhưng lại không ủy mị. Tiếng đàn như người kể chuyện, câu chuyện về một vùng đất và những con người thủy chung, nghĩa tình. Hơn năm mươi năm làm bạn với đàn, giờ đây ông lướt trên phím nhẹ nhàng như một cuộc dạo chơi. Chổ nào xự chổ nào xang, chữ nào nặng chữ nào nhẹ, giai điệu tự nó tuôn chảy dưới những ngón tay đã in dấu thời gian. Ông đã đi gần hết cuộc đời mình, chứng kiến bao nhiêu thăng trầm của đất và người. Những hỷ, nộ, ái, ố của chốn vô thường đã bao nếm trải. …“Cốc”… Xang xế xang, xứ xề liu tồn xự xang… Bản Phụng Cầu ngọt ngào, thiết tha xuyên qua từng vạt nắng rồi len lỏi giữa những vườn xoài xanh ngắt.
Trong không gian tỉnh lặng của buổi trưa miền quê châu thổ, tiếng đàn sến của ông Ba Ẩn cứ như tiếng của người thân thủ thỉ chuyện trò, chân tình, thân thiết. Ngay cái giây phút ấy, tôi bỗng cảm thấy mình thật thanh thản, dường như đã bước ra khỏi niềm vui nổi buồn thường nhật. Ở một góc vườn, con gà mẹ đủng đỉnh bới tìm thức ăn cho đàn con lăng xăng vây quanh.
Giả từ ông Ba Ẩn, cả đoàn lại đường quê tiến về tư gia của cựu giáo chức Nguyễn Phước Cho ở xã Mỹ Hiệp, anh cũng là một lão nông làm chủ mấy vườn xoài. Căn nhà của anh cất theo kiểu xưa làng quê nam bộ, bề thế giữa vườn cây rợp mát. Phía trước nhà vẫn là con đường nhỏ rải sỏi yên bình. Bên kia con đường, chỉ cần băng qua khu vườn chừng hai trăm mét là đã đến bờ sông Tiền. Mấy nhà thơ, văn nữ cùng với nhóm các em sinh viên mới nhập bọn tíu tít dắt nhau đi hái bưởi, cóc trong vườn của anh. Không gian yên tĩnh, thoáng mát lại có điện, có wifi. Cả đoàn chúng tôi mười mấy người đều được bố trí nơi ngủ, nghĩ rất đàng hoàng.
Buổi tối sinh hoạt thật náo nhiệt, may là gần kế bên không có nhà nên không sợ làm phiền hàng xóm. Ngoài các em sinh viên còn có một số anh em nhân sĩ địa phương đến giao lưu. Trùng hợp hôm nay là sinh nhật của một bạn sinh viên nên chúng tôi kết hợp hát hò chúc mừng rôm rả. Chín giờ đêm, chương trình chuyển qua đờn ca tài tử. Ban nhạc gồm một đàn guitar và một đàn kìm. Đánh đàn kìm là ông Hai Rớt, một lão nông tuổi đã ngoài tám mươi. Ông bỏ đàn hơn chục năm rồi, nay nghe có anh em văn nghệ sĩ đến địa phương, ông nhiệt tình ôm đàn đến cùng chơi với chúng tôi. Đêm nay hát nhiều nhất là bài vọng cổ. Ngoài các tác giả Kim Hằng, Lạc Nguyên, Hoàng Sen giới thiệu các sáng tác mới, một tác giả địa phương là anh Lục Bình - giáo viên tiểu học - cũng mang đến đêm vui những sáng tác của mình nhờ anh em góp ý.
Đã gần cuối tháng nên trời không có trăng, chỉ có những vì sao nhấp nháy phía xa xa. Không gian làng quê thật yên tĩnh. Gió từ sông Tiền thổi vào mát rượi mang theo cả tiếng máy rì rầm của những con tàu ngược xuôi chở nặng. Đất cũng thao thức trở mình. Bài vọng cổ càng về khuya càng ngọt ngào thiết tha. Thỉnh thoảng đâu đó ngoài vườn tiếng một con ễnh ương vang lên như một nét chấm phá cho bức tranh đồng nội của vùng quê châu thổ.
Tôi chú ý đến người đàn ông đánh cây đàn guitar phím lõm. Anh trạc tuổi năm lăm, người tầm thước, chắc chắn. Anh hầu như rất ít nói chuyện mà chỉ tập trung vào cây đàn. Anh ngồi đánh đàn như cho riêng mình. Dưới những ngón tay thô ráp của anh, câu rao nói lối nghe thật mượt mà, sâu lắng. Tiếng đàn của anh chứa đầy nội tâm. Tận dụng hết lợi thế phím lõm của cây đàn guitar cổ, từng chữ đờn được anh chăm chút nhấn nhá như gửi gắm vào đấy cả tâm tình. Giai điệu của bản vọng cổ được anh đàn như một lời thổ lộ nghe thật da diết trong đêm yên ắng. Nó không mùi mẫn, sướt mướt, và cũng không phải là một lời than thở ai oán, não lòng. Những chữ đàn nghe chừng rất đơn giản nhưng mỗi chữ có thể nhận ra sự chắc chiu, trân quý của người nhạc công đất cù lao này. Bên cạnh tiếng đàn kìm đầy kinh nghiệm của lão nhạc công đã u tám mươi, tiếng guitar của anh lúc hiện lúc ẩn, hòa quyện cùng lời ca, bài vọng cổ bổng dưng nghe trĩu nặng những trăn trở suy tư giữa miền quê cây trái.
Chúng tôi hát hò mãi đến hơn mười hai giờ đêm mới chịu lắng lại. Trời về khuya, không gian làng quê thật tĩnh mịch. Còn lại năm, sáu người chúng tôi trò chuyện về sự đổi thay của vùng đất cù lao Giêng, nói về những trăn trở của người nông dân khi giải bài toán giữa lợi nhuận và môi trường.
Tôi lân la ngồi cạnh người đàn ông đánh đàn guitar, mời anh một ly rượu. Qua câu chuyện cùng anh, tôi được biết anh là Võ Văn Hy, hiện là giáo viên dạy môn Hóa học của trường THCS Mỹ Hiệp – Chợ Mới – An Giang. Anh cho biết mình mê đờn ca tài tử từ khi còn rất nhỏ. Năm học lớp tám anh đã đàn được rất nhiều bài bản trong ba nam sáu bắc. Anh cũng ôm mộng thi vào Nhạc viện, đi đến nơi đến chốn bộ môn đàn ca tài tử. Những năm anh học cấp ba cuộc sống vô cùng khó khăn bởi chính sách bao cấp. Nghèo khổ quá thì ai mà lo đàn hát nữa. Phong trào đờn ca tài tử hầu như không hoạt động. Ông già anh bắt đứa con trai út phải làm thầy giáo. Anh thi đậu Cao đẳng sư phạm Toán, nhưng trường lại chuyển anh sang học môn Hóa. Công việc dạy Hóa của ông giáo và việc nhà nông (anh là chủ một vườn xài gần 2 hecta) chiếm hết thời gian của anh. Anh bỏ hẳn không đánh đàn nữa. Nhưng cái máu văn nghệ thì vẫn thức trong anh như đàn ca tài tử vẫn âm thầm duy trì, phát triển trong đời sống người miền Tây. Đầu những năm hai ngàn, cuộc sống khấm khá hơn lên, phong trào đờn ca tài tử được phục hồi. Các hội thi, liên hoan diễn ra khắp nơi. Còn ở nông thôn, hầu như các tiệc vui như cưới, sinh nhật, tân gia… kể cả đám cúng giỗ đều có phần đờn ca tài tử. Anh bắt đầu tập đàn trở lại, tìm thầy học hỏi thêm. Anh nói: - “Cái ăn, cái mặc thì không phải lo lắng, nhưng cuộc sống nội tâm của mình thì có biết bao nhiêu tâm tư, uẩn khúc”. Bao nhiêu năm của người thầy với những lớp học trò! Bao nhiêu năm của người nông dân mà đôi chân đã quen từng góc rạ... Khi có tâm sự không biết tỏ cũng ai, anh lại ôm đàn vừa luyện tập vừa để giải tỏa những ẩn ức trong lòng. Những lúc như vậy anh giống như ở trong cảnh giới của thiền định. Chỉ có anh với cây đàn! Mọi thứ dường như không còn tồn tại nữa. Cây đàn và anh đã là một. Tiếng đàn cũng chính là tiếng lòng anh. Từng tháng! Từng ngày! Những bài bản đờn ca tài tử anh đàn cũng tốt, nhưng anh đặc biệt thích và đầu tư nhiều thời gian cho sáu câu vọng cổ. Anh nói bản vọng cổ nó kỳ diệu lắm. Nó vừa có những điểm cơ bản bắt buộc phải tuân thủ, nhưng đồng thời cũng chừa lại những khoảng tự do sáng tạo dành cho người nghệ sĩ. Và anh tin rằng bản vọng cổ sẽ còn sống mãi với làng quê châu thổ.
Chúng tôi ngồi rù rì chuyện trò mãi đến hai giờ sáng. Trước khi ra về anh nói đàn riêng tặng cho tôi ba câu một, hai, ba của bài vọng cổ. Sau câu rao như trải lòng của anh, giai điệu của bài vọng cổ vang lên thiết tha trong đêm vắng. Chỉ bốn, năm chữ hò “nhồi” (2) ở đầu nhịp mười sáu đã nghe như tiếng thở dài đầy khắc khoải. Giờ thì tôi đã hiểu “từng giọt đàn” mà nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn diễn tả trong ca khúc “Đất nước” của ông. Từng giọt, từng giọt… mọng chín cảm xúc rơi xuống! Khi nhanh, khi chậm, mỗi giọt như có hình thù riêng, và tất cả đầy đặn với một màu âm, một sắc thái độc đáo. Những chữ đờn của anh lúc mềm mại, sâu lắng, lúc ray rức xót xa. Bản vọng cổ đã vốn buồn, dưới sự thể hiện của anh nó như đánh thức những riêng tư của người nghe. Ký ức bất chợt quay về trong phút giây, xao động. Đoạn “đờn nhồi”(2) trước câu hai, những chữ đờn bỗng nhiên như tuôn trào, liền mạch rượt đuổi nhau, để rồi ở nhịp mười hai, chữ “xang” rơi xuống như vỡ òa tiếng nấc.
Không có lời ca đi kèm, bản vọng cổ “độc chiếc”(3) bằng đàn guitar phím lõm của anh trở thành một tác phẩm khí nhạc hoàn chỉnh. Chổ độc đáo của bản vọng cổ là cái khoảng trống sáng tạo dành cho người nhạc công. Mặc dù học là truyền ngón, truyền khẩu nhưng đã là nhạc công thì ai cũng có ngón đờn, “chữ đờn” của riêng mình. Tối nay trong cái giây phút thăng hoa, anh đã cho chúng tôi thưởng thức bài vọng cổ với những chữ đờn chất chứa những buồn vui của một đời người. Nốt nhạc cuối cùng đã hết từ lâu nhưng chúng tôi vẫn lặng yên không ai nói với ai câu gì. Đêm thật sâu!
Hôm nay thật đặc biệt. Trong một ngày rong chơi miền thôn dã bên bờ con sông Tiền lặng lờ chuyên chở phù sa, tôi đã được nghe hai tiếng đàn độc đáo với hai sắc thái tình cảm hoàn toàn khác nhau. Một đã giũ bỏ những buồn vui, thong dong tự tại với tháng ngày, và một thì chất chứa những niềm riêng oằn nặng. Mỗi người mỗi vẻ. Những nông dân nghệ sĩ nặng lòng với đất nhưng vẫn dành cho đờn ca tài tử một tình yêu với cả tấc lòng. Vâng! không phải là những sân khấu hoành tráng xênh xang đèn hoa rực rở, mà ngay chính nơi những khu vườn, những ruộng lúa và những dòng kinh, cái mạch ngầm đờn ca tài tử vẫn chảy suốt, trầm tĩnh đi qua tháng ngày, thủy chung cùng người cùng đất.
 Chuyến đi ngắn nhưng thật thú vị. Cảm ơn mảnh đất cù lao Giêng với những con người hiền hòa, hiếu khách. Đường về, trong màn mưa lất phất bay, dường như nghe câu Phượng Hoàng rưng rưng cùng đất.
Tôi chợt nghĩ miền Tây làm sao mà không có đờn ca tài tử được nhỉ!
10.2018



____________________________________
-(1) Khi người hát xuống câu vọng cổ, nhạc công sẽ đàn liên tục bốn, năm lần chữ Hò.
-(2) Là đoạn mười hai nhịp không có lời ca trước câu số hai, gần giống với gian tấu trong các ca khúc.
-(2) Cách gọi độc tấu trong đờn ca tài tử

Không có nhận xét nào: