Thứ Tư, 27 tháng 8, 2008

Những nẻo đường quê

Có lẽ tôi mãi vẫn là người củ, người của đường làng bóng tre. Tôi luôn cảm thấy mình không phù hợp với những ồn ào náo nhiệt của chốn phố chợ, không phù hợp với nhịp sống luôn tất bật, luôn hối hả của người "kẻ chợ". Mỗi sáng phải dậy theo chuông báo thức, rồi ăn sáng vội vàng để kịp giờ đến chổ làm. Buổi trưa buổi chiều còn phải tranh thủ chạy rước con ở nhà trẻ. Buổi tối củng đâu phải là lúc được thảnh thơi . Nào là chuyện con cái, chuyện gia đình, bao nhiêu là thứ mà buổi ngày không làm được vì bận rộn, kể cả khi đi ngủ củng phải đồng hành cùng với những toan tính cho cuộc sống. Ngày cứ thế trôi qua vùn vụt trong sự tất bật, dường như không còn thời gian để dừng lại nghĩ suy, chiêm nghiệm. Người ta sống gấp gáp , vội vả như là chẳng còn thời gian để sống. Mà không như thế củng đâu có được. Cuộc sống cứ như một guồng máy mà mỗi cá nhân như một con đinh vít, phải xoắn, phải xoay theo một chiều được định sẳn. Cuộc sống càng phát triển bao nhiêu, thì con người lại càng bị ràng buộc bởi chính cái nhịp sống hối hả của nó bấy nhiêu. Quay cuồng trong những lo toan vất vã, ngày qua ngày dường như không còn những phút giây thư giản thoải mái. Những khi cảm thấy quá ngột ngạt, tôi lại tìm cho mình một chút cân bằng tâm hồn bằng cách rẻ vào một con đường quê bất chợt gặp được, rồi cứ thế mà dong ruổi,mà nhìn ngắm.
Một mình chạy xe lang thang vào các con đường quê yên tỉnh rợp mát bóng cây, quan sát cuộc sống của cư dân sống dọc theo hai bên đường là một trong những điều tôi rất thích thú. Củng chẳng có mục đích gì, chỉ đơn giản là tìm lấy một chút thư giản để cân bằng tinh thần sau những giờ vùi đầu với công việc. Bỏ lại sau lưng những ồn ào phố xá, cái không khí yên ắng thanh bình của những con đường nhỏ chốn quê luôn mang lại cho tôi những cảm giác bình yên khó tả. Những phiền muôn trong cuộc sống, những vây hãm của cơm áo gạo tiền, kể cả những toan tính cho cuộc đời củng dường như tan biến. Cảm giác thư thái chiếm lấy tâm hồn, dường như ta trở lại với một tuổi nào thơ dại, lại được đắm mình trong cái không khí ấm cúng chân tình của chốn làng quê. Những con đường quê nhỏ ở miền Tây giờ đây không còn ổ gà ổ voi, mùa mưa đến lầy lội như xưa. Cuộc sống ngày một phát triển, bộ mặt nông thôn miền tây giờ củng đã sáng sủa hơn. Đa số những con đường đã được láng nhựa hoặc bê-tông hoá, khang trang, thẳng tắp. Điện dã được kéo về tận những vùng xa xôi hẻo lánh, cuộc sống tiện nghi đã thâm nhập vào tận những ngõ ngách của chốn làng quê. Cái chái bếp ám khói ngày nào giờ đã sạch sẽ hơn, sáng sủa hơn với cái bếp ga mới tinh. Nhưng cái nhịp sống thư thả, bình yên của nơi làng quê thì vẫn như vậy, vẫn như bao đời nay trên đồng ruộng miền Tây. Chầm chậm thôi và quan sát để có thể cảm nhận hết được cái hơi thở của cuộc sống dân dã chốn làng quê. Không có những bon chen, đua đòi, người ta vui với những gì mà cuộc sống mang lại cho họ. Những người quê chân chất, hiền hoà. Đã bao lần tôi bất chợt dừng lại, xin một miếng nước hoặc giả hỏi đường, và lần nào tôi củng nhận được một sự hồ hởi chân tình từ những con người hết sức bình dị kia. Tôi chợt nhớ đến những ánh mắt vô cảm nơi phố chợ, nhớ đến sự vô tâm trước bao nhiêu nổi đau đang diễn ra hàng ngày trong cuộc sống.
Ở mỗi một con đường quê củng như ở mỗi thời điểm trong ngày, bạn sẽ cảm nhận được những riêng tư cuộc sống của cư dân sống dọc theo những con đường quê. Người quê thức rất sớm, hơn năm giờ sáng hầu như mọi nhà đã dậy, bếp lửa được nhóm lên để nấu nước pha một bình trà cho ngày mới. Họ cũng chẳng có gì phải vội vã, mà chỉ là nếp sống bao đời nay. Ban mai trên những con đường quê thật trong lành và thanh khiết. Mùi khói bếp và cả khói từ những đống lửa đã sắp tàn đốt từ đêm qua để chống muỗi cho trâu bò thoang thoảng trong gió càng tạo cho không khí những miền quê thật sự thân quen, thật sự gần gủi. Những cụ già thảnh thơi ngồi nhấm nháp từng ngụm trà nóng, khề khà chuyện mùa vụ, chuyện đời, chuyện cháu con. Cả những chú bò cổ trong chuồng củng đủng đỉnh gặm cỏ chờ anh chàng" mục đồng" thưởng thức ly cà phê sau bửa cơm sáng lót dạ. Buổi sớm trên những con đường quê không có những hối hả, gấp gáp cho kịp đến sở làm như người "kẻ chợ". Người ta đón nhận ngày mới thật nhẹ nhàng như nó vốn có, tôi thích cái cách nghĩ suy này, nó làm cho ta thấy ngày mới thật đẹp và ý nghĩa chứ không phải ngày mới với bao nhiêu toan tính đầy mệt mỏi. Mới sớm tinh mơ, những chiếc xe đẩy tay chở đủ loại từ cá thịt, rau quả cho đến các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu toả đi khắp các nẻo vùng quê. Những bà nội trợ không cần băng một quãng đường dài để đến chợ, họ có thể chuẩn bị thức ăn cho gia đình ngay trước sân nhà từ những cái chợ lưu động ấy. Buổi sớm trên những nẻo đường quê tuy nhẹ nhàng, nhưng nó củng không kém phần hừng hực cho một ngày mới. Trong ánh ban mai hồng tươi, từng bụi cây, ruộng lúa và cả con đường như bừng sáng lên trong sắc màu rực rở. Ẩn chứa dưới những cơ bắp của anh lực điền, dưới tà áo bà ba phất phơ trước gió của cô thôn nữ trên đường ra chợ, và cả trong những đôi mắt đã hằn vết thời gian của những lão nông tri điền... là sức sống mãnh liệt, cuồn cuộn chảy của một vùng quê giàu nghĩa, nặng tình. Người ta vẫn yêu thương nhau, vẫn đùm bọc nhau như từ thuở nào cha ông mở đất. Đồng lúa bát ngát màu xanh., những khu vườn say cành trĩu quả và cuộc sống ấm no ngày càng sinh sôi nãy nở trên mãnh đất vốn đã được thiên nhiên hào phóng ban cho nhiều tặng vật. Người miền tây yêu mến đất đai của mình như chính những người thân của họ. Tình yêu với đất, tình yêu thương con người hoà quyện nhau trong đạo lý sống của người miền tây. Người ta sống chan hoà và cảm thông, xuề xoà bỏ chín làm mười và luôn dạy cháu con ăn hiền ở lành, giữ gìn đạo lý . Buổi sáng vào mùa cưới, khi chạy xe trên các con đường quê, bạn sẽ rất thú vị khi phải lách xe qua những bàn tiệc được che rạp dọn ngay trên đường. Rượu đế và những lời chúc tụng chảy tràn. Có gì đâu chứ, trong ngày vui vi phạm giao thông chút đỉnh thì có gì ghê gớm đâu. Người miền Tây là thế đấy, không câu nệ tiểu tiết. Hề hà lởi xởi tưởng chừng như rất vô tâm, nhưng lại chân thành và nghĩa tình xiết bao.


Buổi trưa, khi mà trời nắng đổ lửa, chạy xe trên những con đường quê rợp mát bóng cây, ta mới cảm nhận hết cái mát mẽ, sảng khoái của không gian mênh mông trong lành vùng quê miền Tây. Không gian thật yên ắng, tỉnh lặng. Những chú bò uể oải, hờ hững nhấm nháp mấy đọt cỏ non trong bóng râm mát rượi của hàng gáo vàng đang kỳ ra hoa. Những chú gà nhởn nhơ bới tìm thức ăn trong những bụi cỏ,hàng rào ven đường. Lủ nhóc không ngủ trưa được kéo nhau ra góc vườn xa chơi trò trốn tìm. Một không khí nghĩ ngơi thật sự, cả con chim trao trảo trên cây trứng cá củng cất tiếng hót ngập ngừng như sợ phá vở cái không gian tĩnh lặng ấy. Làng quê miền tây bình dị, và hiền hoà. Thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp dưới bóng khế già, trong cái khoảng sân chiếu đầy hoa nắng, hình ảnh một cụ bà đầu tóc bạc phơ, cặp kính lão trễ xuống mũi, chăm chú vào miếng vá trên tay mình. Tôi không biết mình có quá củ không, Tôi luôn cảm thấy tâm hồn mình có gì đó thật xao động trước những hình ảnh mộc mạc, bình dị như thế. Chỉ là một chiếc cầu củ bắc qua con rạch, chỉ là một cành hoa dâm bụt vừa mới nở bên hàng rào nhà ai đó, chỉ là cô thôn nữ giặt áo bên chiếc cầu ven con rạch...chỉ chừng ấy thôi củng đủ để xúc động, củng đủ để làm nhẹ đi những mệt mỏi của đời sống thường nhật.
Buổi chiều, khi mà cư dân sống ven những nẻo đường quê kết thúc một ngày lao động là thời điểm tôi thích nhất khi đi trên những con đường ấy. Thấp thoáng trong những vườn cây loang loáng ánh phản chiếu của những mái nhà, những sợi khói bếp màu lam lãng đãng trên vòm cây rồi hoà vào mây trôi lững lơ trên bầu trời trong nắng chiều vàng rực chiếu xiên qua hàng cây ven đường. Chiều xuống chầm chậm. Bóng đàn bò đủng đỉnh về chuồng trãi dài trên đồng lúa xanh ngắt một màu. Ở một góc bãi cỏ xanh rờn ngay khúc quanh, lủ trẻ quê vô tư reo hò thả những con diều giấy bay lên tận trời xanh. Đôi khi tôi dừng lại nơi một sân bóng tự tạo từ mãnh ruộng vừa gặt xong để xem trận bóng đá giữa những cầu thủ nông dân sau những giờ làm việc trên đồng ruộng. Họ đến với sân chơi củng hết mình lăn xã như khi lao động trên mãnh đất của mình. Hạnh phúc của những con người bình dị ấy thật giản đơn và trong sáng xiết bao. Họ kết thúc một ngày làm việc hết sức thảnh thơi, không băn khoăn lo nghĩ. Sảng khoái biết bao. Chiều trên những con đường làng đẹp như một bài thơ mộc mạc mà đậm đà thi vị. Lẫn trong tiếng gió chiều xào xạc là tiếng cười đùa vang động mặt sông của những thôn nữ tranh thủ giặt giũ khi thuỷ triều lên. Người ta kết thúc một ngày lao động với cảm giác an bình, thảnh thơi thật sự. Cuộc sống vốn ít đòi hỏi thì cần chi những toan tính ngược xuôi. Những gì cần làm cho ngày mai họ sẽ trao đổi trong bửa cơm chiều ấm cúng, cả nhà quây quần bên nhau trên bộ ván trước hiên nhà. Có thể có thêm vài "xị đế" để cánh đàn ông "lai rai" chuyện lúa, chuyện làng, chuyện lứa đôi của lủ trẻ. Điện đã được đưa về tận những nẻo đường xa xôi hẻo lánh, buổi tối họ lại có thêm thú vui bên chiếc ti vi với bao nhiêu điều mới lạ, họ đã có thể khám phá những vùng đất xa xôi mà chưa một lần được đặt chân đến.
Bình yên xiết bao trên những nẻo đường quê. Không hối hả, không vội vàng nhưng ẩn chứa một sức sống tiềm tàng mảnh liệt. Những nẻo đường quê như những nét chấm phá cho bức tranh miền tây thêm phần thi vị. Nó không lung linh huyền ảo hững sắc màu, siêu thực, mà mộc mạc chắc khẻo như những bức tranh dân gian . Tuy nhiên, cuộc sống luôn luôn phát triển, đó là một sự vận động tất yếu. Khi mà những tiện nghi cuộc sống củng như lối sống thực dụng chốn phố chợ tràn về nông thôn, liệu sự bình yên thi vị trên những nẻo đường quê có còn đó hay chăng ?! Sẽ có lúc, ở những ngã rẽ bất chợt vào những con đường quê, cuộc sống vẫn ồn ào như nơi phố chợ, cái bình yên êm ả của chốn làng quê chỉ là ký ức. Tôi không biết lúc ấy mình sẽ làm gì để tìm một khoảnh khắc cho tâm hồn thư thái, an bình trước những náo nhiệt cả cuộc đời.

Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2008

Tháng bảy và Mẹ

Tháng bảy, trời buồn !
Tháng bảy mênh mang thu tím
Mưa ngâu tan trên xác lá vàng.
Tháng bảy con tìm về bên mẹ
Khói nhang thơm quyện khói trời xa.


Tháng bảy, chiều sương,
bụi lòng đường cay mắt.
Gió thu ru câu hát à ơi...
Dòng sông trôi xuôi khuất cuối chân trời
Tuổi thơ và Mẹ... xa dần năm tháng.


Tháng bảy, nước lên
Đồng mênh mông trắng xoá.
Chấp chới cánh cò trên sóng chao nghiên.
Mẹ một đời oằn vai sương gió.
Cho con bình yên đi giữa nhân gian.

Bến củ còn đây,
Mẹ giờ xa khuất nẽo.
Cánh buồm trôi về chốn hư vô.
Ổ bánh nóng giòn, cánh hoa sao trong gió.
Trẻ thơ ơi lạc đâu mất dòng sông.


Tháng bảy, người đi
bao nẻo đời dong ruổi
Mùa Vu lan vẫn lại xuôi về.
Cành hồng trắng giữa chiều thu tím
Bao năm xa vẫn tinh khiết một màu.


Lối củ con về,
thắp nén hương cho mẹ.
Mùa Vu lan thơm ngát nụ hồng.
Lãng đãng mưa bay chiều thu mờ mịt.
Bóng mẹ mênh mông che chở đời con.

Tháng bảy con về,
tìm những yêu thương.
Tìm lại tuổi thơ bên dòng sông cũ.
Giữa mênh mang thu chiều tắt nắng.
Tiếng mẹ ru trong khói hương bay

Tháng bảy mưa ngâu,
Ô thước bắt cầu nối bến.
Ả Chức, Chàng Ngưu thoả nổi khát khao.
Sao không có chiếc cầu về ký ức.
Cho con nằm nôi nghe câu hát ầu ơ.

Mùa vu lan

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2008

Rạch Voi

Nhạc sỹ Hoàng Hiệp đã hết sức chính xác khi viết " quê tôi ai củng có, một dòng sông bên nhà.. con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi..". Miền Tây là một vùng đất kinh rạch chằng chịt, để tiện cho sinh hoạt củng như nhu cầu đi lại, cư dân miền tây chủ yếu cất nhà hai bên bờ các kênh rạch. Có thể nói có người dân miền tây nào mà không có những kỹ niệm tuổi thơ gắn liền với con sông quê. Những con sông quê mang bao phù sa cho đồng ruộng, mang bao gắn bó cho những đời người.Những con sông thầm lặng chảy khắp vùng đồng bằng châu thổ, và củng thầm lặng chảy trong ký ức của những đứa con lớn lên trên vùng sông nước Cửu long. Tôi củng có một dòng sông thơ ấu. Ở đó, trong dòng nước lặng lờ của con sông, những ký ức tuổi thơ tôi luôn cuồn cuộn chảy. Con sông của tôi không lớn, nó chỉ là một con rạch nhỏ có cái tên dân gian Rạch Voi, chiều rộng lúc nước lớn nhất chưa đến 10 mét, nhưng nó chứa đựng cả một trời tuổi thơ tôi với biết bao nhiêu buồn vui, hạnh phúc.
Tôi sinh ra là lớn lên bên bờ con rạch Voi, tôi không biết nói có tự bao giờ, nhưng nó vẫn luôn ở đó mỗi khi tôi mở cửa nhà sau ra, thân thiết và gần gũi như một người bạn. Tôi củng chẳng có thời gian tìm hiểu kỹ lưỡng, chỉ biết rằng ngày xưa khi vùng đất này chưa được khai phá, những đàn thú hoang trong đó có những con voi to lớn kéo nhau ra sông Hậu uống nước khi mùa khô hạn đến, lâu dần lối mòn của chúng đi ngày một rộng thêm, sâu thêm rồi trở thành con rạch qua bao mùa mưa nắng. Vì vậy dân gian gọi là rạch Voi. Rạch Voi dài khoảng sáu bảy km, bắt nguồn từ kinh 7 nằm giữa đồng của xã Vĩnh thạnh trung (Châu phú-An Giang) , rồi chảy băng qua cánh đồng tiến ra sông Hậu, đến cầu chữ S nó bắt đầu chảy dọc theo quốc lộ 91 rồi đổ vào rạch Phù Vật khi vừa qua khỏi chợ Cái Dầu. Chỉ là một con rạch nhỏ và bây giờ củng đã bị lấp đi để quy hoạch làm tuyến dân cư, nhưng với tôi nó không đơn giản chỉ là một con sông mà nó chính là những ký ức gắn liền với một trời tuổi thơ tôi. Bên bờ con rạch ấy, tôi đã được nghe những tiếng ầu ơ đầu đời từ tình yêu của mẹ. Tôi, với những vui buồn của một tuổi rong chơi đều dường như gắn liền với ngày hai buổi lớn ròng của con rạch. Củng có những nuối tiếc khi vào một ngày thơ bé, ta đã lơ đễnh để dòng sông trôi xa về biển rộng. Nhưng con rạch vẫn ở đó với bao mùa mưa nắng đi qua, cho dù giờ đây nó đã biến mất vào trong sự phát triển xã hội, nhưng dòng nước của nó vẫn lặng lờ chảy trong ký ức những con người đã từng uống nước, từng tắm mát trên con sông ấy. Rạch Voi không rộng lắm, khi nước lớn muốn đi qua chỉ cần ngồi lên xuồng xô mạnh một cái là đã qua bờ bên kia con rạch. Phía bên bờ tôi ở, con rạch chạy dọc theo quốc lộ 91 nên nhà cửa đông đúc, còn bên bờ đối diện là một cánh đồng nhỏ trồng rẩy, củng là nơi bọn trẻ con trong xóm chơi trò "vượt sông trinh sát'' khi những đám sắn, đám mía đến hồi thu hoạch. Mùa nước nổi thì khỏi nói rồi, cánh đồng và xung quanh đó trở thành nơi rong chơi khám phá. Bọn nhóc chúng tôi đứa nào củng lăm lăm trên tay những cây ná tự tạo, len lõi trong các vườn cây giờ đã ngập nước lùng săn những chú rắn mối, rắn nước, những chú chuột cống nhum mập ú làm tổ trên ngọn cây tránh lũ. Phía bờ rạch bên ấy (đoạn chảy qua sau nhà tôi ) không có đường nên chỉ có mấy gia đình có đất trên cánh đồng ấy sinh sống. Hồi đó không có nước máy, nên mọi sinh hoạt từ tắm giặt,ăn uống đều chủ yếu dựa vào nước của con rạch. Dưới bến sông mỗi nhà đều có một chiếc cầu theo kiểu cầu ao, làm nơi tắm giặt. Những khi chiều nước lớn, cả xóm ra sông kẻ tắm, người giặt còn lủ con nít thì phấn khích nô đùa vang cả một đoạn sông. Bên cạnh nhà tôi là cái bến sông nơi bác Tư máy Cày đậu chiếc "chẹt" mỗi khi đưa máy cày từ trong ruộng về. Ngay mép nước có một cây gáo vàng to, có một cành vươn dài ra đến giữa con rạch, bọn nhóc chúng tôi leo ra ngoài nhánh cây rồi làm một cú nhảy " dừa khô " xuống mặt sông làm nước bắn lên tung toé. Cả xóm hầu như đều thuộc lòng chu kỳ nước lớn ròng, thuộc lòng thuỷ triều của con rạch. Củng có khi nước "kiệt", lòng rạch cạn khô, nếu không dự trữ trước thì phải chờ đến nữa đêm khi trăng lên, nước lớn mới có nước tắm. Lúc này cả xóm lại vang lên tiếng cót két của những cái rỏ rẻ trượt trên những sợi dây thép có treo chiếc thùng để kéo nước lên nhà. Những khi gặp nước kém, phải đào một cái hầm sâu ngay dưới bến để chứa nước .Vào mùa nước thì lại khác, nước dâng lên tràn bờ, ngập ra tận quốc lộ 91, có những năm ngập trên cả sàn nhà tôi. Lúc này thì sướng rồi, khắp xung quanh nhà ở đâu củng là nước, bọn nhóc chúng tôi tha hồ tắm vào bất cứ lúc nào. Tôi rất thích lội qua bên kia con rạch chổ có mấy cây cà na của chú hai Chuông để hái cà na chín. Cà na trổ bông vào tháng năm tháng sáu và chín khi nước đã tràn đủ lên đồng. Những trái cà na chín mềm, thơm lừng vừa chua vừa ngọt, không phải là đặc sản quý giá gì, nhưng nó vẫn là một hương vị khó quên của chốn quê thơ ấu.
Miền tây trong những năm thập niên 70 còn khá nhiều tôm cá, con rạch Voi tuy nhỏ nhưng củng là nơi có thể khai thác cá cho bà con xung quanh. Từ cầu chữ S đến nhà tôi chỉ khoảng ba bốn trăm mét, thế mà đã có đến ba gọng vó to kềnh càng bắt cá hầu như quanh năm (tháng giêng, tháng hai đôi khi những gọng vó ấy củng phải treo lên trời vì lòng sông cạn khô). Nếu không muốn đi chợ, chỉ cần qua chổ vó của chú ba Tông hay vó của vợ chồng hai Mạnh là đã có những con cá tươi ngon roi rói rồi. Không nhiều nhõi gì cho lắm, nhưng tiền bán cá hàng ngày củng đủ nuôi sống cả gia đình chú ba Tông gần cả chục đứa con. Từ mùa khô cho đến mùa lũ, lúc nào củng có thể kiếm cá trên con rạch ấy. Tháng tám, khi nước tràn ngập ra tận quốc lộ 91 củng là mùa cá, những chiếc vó mỗi lần cất lên đều trĩu nặng đủ loại cá. Bọn trẻ chúng tôi thì tha hồ câu, chỗ nào củng đầy nước, ngồi câu cá ngay ngoài hiên nhà mình.Những năm mới giải phóng tôi chỉ mới học cấp hai, hồi ấy cuộc sống thật nhiều những khó khăn. Tôi củng có một chiếc xuồng nhỏ, một cái chài dây ny lon.Mùa nước, ngoài giờ đi học tôi lại chèo chiếc xuồng nhỏ của mình khắp các bến để chài cá, chủ yếu là để cải thiện bửa ăn. Tuy vậy ở lúc "cá ra" sông , tôi củng kiếm đủ cá để ủ nước mắm dự trữ cho cả năm ( cuối tháng 9 âl nước bắt đầu rút xuống, những con cá sinh ra và lớn lên trên đồng giờ kéo nhau ra sông,. Đặc biệt là chúng không đi riêng lẻ, mà tập họp lại thành đàn và chỉ áo ạt ra sông trong khoảng ba bốn ngày, lúc này bà con nông dân gọi là cá ra ).Những hôm đi chài buổi tối về ướt mem, lạnh cóng, làm cá xong nấu một tô canh chua cá thơm lừng mùi rau ngò cho bửa tối, húp một muỗng nóng hổi vừa chua vừa ngọt, ấm áp biết bao. Những bửa cơm gia đình đạm bạc với cái món canh chua dân dã ấy , củng ngon và có một hương vị riêng tư, đọng lại mãi trong tôi dù đã nhiều năm trôi qua rồi. Khi chúng tôi câu được những con cá rô biển to tướng cũng là lúc mùa gió bấc về, con rạch lại ngày hai buổi nước lớn ròng. Mỗi ngày khi nước rút xuống khoảng trên đầu gối, ở khắp các bến bãi của con rạch, chỗ nào củng có người bắt cá.Kẻ sử dụng lưới kéo, người dùng chày ,người dùng nôm, thậm chí có cả những người bắt cá bằng tay không rất giỏi. Chỉ cần đi qua một vòng quậy nước cho xao động mạnh, những chú cá he, cá rô biển hoảng sợ trốn vào các gốc cây ven sông hoặc các dấu chân, lúc này chỉ cần nhẹ nhàng mò tay vào chộp lấy. Miền Tây của một thời đúng là lắm tôm nhiều cá, chuyện tìm cá cải thiện cho một bửa gia đình là điều quá dể dàng trên con rạch Voi ngày ấy. Thậm chí cả khi nước kiệt, lòng sông thu nhỏ chỉ còn hơn một mét vẫn có thể kiếm cá ăn. Hai cha con của bác hai Chuông là người nổi tiếng bắt cá chạch trong xóm. Bắt cá chạch bằng tay không đâu phải dễ, những con cá chạch trơn lùi lại sống vùi trong bùn, lủi rất nhanh khi bị động. Thọc sâu hai tay xuống bùn ròi moi lên, nhanh chóng chộp những chú cá chạch trước khi chúng lủi sâu. Những năm sau người ta chế ra một dụng cụ như một cái bàn cào cỏ nhưng răng nhỏ và dầy, thọc sâu xuống bùn rồi kéo lên, những con cá chạch nằm dưới bùn sẽ bị vướng vào răng của bàn cào. Món đặc biệt mà tôi thích khi mẹ tôi mua của bác hai Chuông là những con Lịch, một loại như lươn nhưng thịt mềm và ngon vô cùng. Những con lịch đem um với lá cách cho thêm một ít nước cốt dừa và đậu phộng vào thì còn gì bằng. Bọn nhóc chúng tôi thì khoái chơi trò " tát đìa " khi lòng sông cạn khô nước. Chọn một đoạn rạch khoảng chục mét rồi đắp chận ở hai đầu, tát khô nước để bắt cá. Đứa nào củng đầy sình từ đầu xuống tới chân, chủ yếu là vui vẽ, vậy mà củng kiếm được bửa ăn cho gia đình.Con rạch Voi không rộng lắm, nguồn lợi từ thuỷ sản củng không nhiều lắm nhưng nó củng đã giúp nuôi sống, củng như cải thiện bửa ăn cho bao gia đình nghèo sống bên bờ của nó. Tuy nhiên, do khai thác quá mức, cùng với việc nước không lên đồng được do đê bao để làm vụ ba vì thế không có chổ cho cá sinh sản, nguồn lợi thuỷ sản trên con rạch Voi củng dần dần bị cạn kiệt. Những năm trước khi nó bị lấp đi vào khoảng cuối thập niên 90, thì việc bắt cá để cải thiện bửa ăn thôi đã là điều khó khăn. Điều này củng dể hiểu thôi, bằng nhiều hình thức, chúng ta đã vắt cạn những tài nguyên mà thiên nhiên đã hào phóng mang lại cho vùng đất Miền Tây hiền hoà màu mở này.
Mặc dù không phải là con đường thuỷ quan trọng trong khu vực ,nhưng trước khi có con kinh 10 nối liền từ sông Hậu đến Hà Tiên, rạch Voi củng đóng góp rất nhiều cho giao thông đường thuỷ. Các sản vật nông nghiệp của cánh đồng Vĩnh Thạnh Trung được chuyển ra sông Hậu phần nhiều bằng đường rạch Voi. Từ trên các bến bãi của con rạch Voi, Những chiếc ghe chất đầy lúa, dậu , bắp hoặc các loại rau củ quả như dưa hấu, dưa hoàng kim, khổ hoa...toả đi khắp mị nơi. Đồng thời những thứ trái cây, sản vật của "miệt dưới" củng được đưa về cho cư dân ở hai bên rạch Voi. Hồi ấy khi nước lủ lên cao, những buổi cơm chiều gia đình tôi thường dọn ra phía sau nhà, vừa mát mẽ vừa có thể ngắm ghe xuồng qua lại. Mùa nước mua hàng từ các xuồng ghe dưới sông thật dễ dàng, chỉ cần cặp sát xuồng vào "sàn nước" là có thể ngồi trên nhà chọn lựa thoải mái. Tôi thích nhất là những tiếng rao ngọt ngào vang động mặt sông, hoà vào tiếng mái chèo khua nước của những cô gái bán hàng. Hết sức gần gủi ,hết sức mộc mạc nhưng củng lung linh như một bức tranh thuỷ mặc được vẽ với một bút pháp tinh tế. Những khi nước lớn bơi xuồng trên rạch củng thú vị vô cùng.
Cả xóm tôi hồi ấy nhà nào củng có chí ít là một chiếc xuồng để làm phương tiện di chuyển trên con rạch. Nhẹ nhàng buông chèo xuôi dòng con nước, cuộc sống thanh bình êm ả biết bao. Khói bếp lãng đãng bay lên từ những mái nhà của mái nhà vên bờ con rạch, tiếng cười đùa vô tư của những cô gái quê tắm giặt dưới bến sông... cái khung cảnh quê thanh bình bên bờ con rạch Voi ngày ấy vẫn còn mãi mãi đọng lại trong tâm trí tôi.
Chiều nay tôi đi ra phía sau nhà, ngồi ở nơi mà trước kia là cái bến nước có chiếc cầu nhỏ tôi thường xuống tắm giặt. Mọi thứ giờ đây đã không còn nhận ra, con rạch đã chim sâu dưới lòng cát của tuyến dân cư. Cuộc sống luôn là một sự vận động tất yếu, trong dòng chảy áo ạt của sự phát triển kinh tế xã hội, dòng sông tuổi thơ của tôi đã bị cuốn trôi nhưng không phải ra biển rộng mà về một nơi khuất xa của quá khứ. Nhưng với tôi, ký ức của một thời tuổi thơ ấy làm sao quên được, tôi vẫn còn như nghe đâu đây tiếng kẽo kẹt mái chèo khua nước đêm trăng.Tôi đi dọc theo bờ cát, dưới chân tôi dường như con rạch vẫn lặng lờ chảy, vẫn lặng lờ chuyên chở bao tấm lòng với quê hương của những người con đã từng tắm mát trên con rạch Voi ngày ấy.

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2008

Sao không về Mỹ Đức

Em có về thăm Mỹ Đức
Nhớ qua vườn nhãn năm nào
hỏi gió còn đong đưa trái
mùa sang huơng nhãn thơm nồng














Em có về thăm Mỹ Đức
Cầu Ngang dừng lại nghe em
Nước chảy dấu xưa còn mất
Hòn sỏi nào quen bước chân

Sao không về thăm Mỹ Đức
Tháng năm chợt nắng chợt mưa
Đường đời bao ngày dong ruổi
Vãn mong bắt gặp một lần

Sao không về thăm Mỹ Đức
Đình làng vẫn hội Kỳ Yên
Áo tím em xưa lạc mất
Lố xưa tôi mãi mê tìm














Lâu rồi chưa về Mỹ Đức
Nằm nghe hương nhãn sang mùa
Nắng mưa đường đời dong ruổi
vẫn nồng hương nhãn đầu môi
Tháng 3-2003