Hiển thị các bài đăng có nhãn Ý kiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ý kiến. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

ÂM NHẠC ĐÁM CƯỚI – LO LẮNG HAY VUI MỪNG?

Những năm gần đây cuộc sống người dân ngày một khấm khá lên, nên nhu cầu giải trí cũng được chú trọng. Ở miền Tây, từ nơi phố chợ cho đến các vùng quê xa xôi hẻo lánh, hầu như các đám tiệc nhất là đám cưới đều có âm nhạc giúp vui tạo nên không khí sôi nổi, vui tươi cho buổi tiệc. Không chỉ ở nhà hàng hoặc các khu vực chợ thị trấn, mà ngay cả những nơi hẻo lánh, khi có tiệc cưới cũng không thể thiếu dàn âm thanh đủ để mọi người thoả chí hát hò.

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

Nỗi buồn trước phút giao thừa

      Còn vài tiếng nữa là đã đến giao thừa, kết thúc năm Tân Mão đầy những biến cố xã hội. Những tờ lịch trên tường tự nó không rơi xuống, nhưng thời gian thì vẫn cần mẫn, đều đặn vận hành cái guồng quay của vũ trụ. Một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, chưa kịp làm xong điều gì thì đã hết năm. Cuộc sống hiện tại luôn buộc chúng ta phải tất bật, phải bươn về phía trước để mà sinh tồn. Nếu không có phút giây chuyển giao giữa năm cũ và năm mới thì chúng ta cũng không có dịp ngồi nhìn lại những vui buồn, được mất trong một năm qua. Có thể nói năm Tân Mão - 2011 - là một năm đầy thử thách với đạo đức xã hội của người Việt. Nhìn lại những gì diễn ra trong đời sống có lẽ chúng ta khó tránh khỏi nổi buồn. Chưa bao giờ xã hội Việt nam phải đối mặt với nhưng vấn nạn về đạo đức hết sức nghiêm trọng như hiện nay. Cái ác, cái xấu xuất hiện ở khắp mọi nơi, trong mọi ngóc ngách của đời sống. Và thật sự nó đã làm những người còn có chút cái tâm thiện không khỏi buồn dai dứt.

Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2011

Chút ưu tư với Đạo Đức học sinh


Học sinh trường THCS Cái Dầu-Châu Phú-An Giang
     Tháng mười một ồn ào với ngày nhà giáo Việt Nam rồi cũng qua. Những người thầy mỗi năm lại được xã hội tôn vinh về những đóng góp cho công cuộc giáo dục và đào tạo của nước nhà. Dĩ nhiên đó là vinh dự cho những người làm thầy khi được xã hội trân trọng công việc của mình. Nhưng có lẽ sự đền đáp tốt nhất mà các thầy cô giáo mong mỏi chính là sự hoàn thiện về năng lực và nhân cách của học trò mình, các em  vào đời thực hiện tốt những nhiệm vụ mà xã hội giao phó, là những công dân có đạo đức, được xã hội trân trọng và là rường cột của nước nhà, chứ không phải là những món quà hay phong bì nặng nhẹ. Có như thế người thầy mới thấy mình làm tròn sứ mệnh mà cả dân tộc, cả xã hội giao phó. Thế nhưng với thực trạng về đạo đức học sinh đang diễn ra trong khắp các trường phổ thông trên phạm vi cả nước, có lẽ không một người thầy nào có thể an lòng nói rằng mình đã hoàn thành phần việc "trồng người".  

Thứ Năm, 4 tháng 3, 2010

Hội thi Giáo viên giỏi Tỉnh An Giang


Chủ tọa đoàn của buổi lễ khai mạc

Sáng ngày 03-3-2010, tại nhà thi đấu đa năng của trường THPT chuyên Thoại Ngọc Hầu, đã diễn ra lễ khai mạc Hội thi giáo viên giỏi cấp tỉnh năm học 2009-2010, do sở Giáo Dục và Đào Tạo An Giang tổ chức. Đến dự lễ khai mạc có bà Phan Ngọc Trinh-Phó Giám đốc sở GD&ĐT An Giang, ông Diệp Thành Long - Trưởng phòng Giáo dục trung hoc-trưởng ban tổ chức cuộc thi, cùng với hơn 300 giám khảo và thí sinh trong đợt thi này. (mình cũng được mời làm giám khảo nữa đó)
Hội thi giáo viên giỏi là một hoạt động thường niên của ngành giáo dục An Giang . Đây là một sự cố gắng của nhằm nâng cao chất lượng của giáo viên, hướng đến mục tiêu xây dựng một đội ngủ giáo viên có đủ tâm lẫn tài, đáp ứng cho những yêu cầu trong tình hình cả nước xây dựng một nền giáo dục ngang tầm với khu vực.
Khác với mọi năm, năm nay ngoài phần thi thực hành giảng dạy, mỗi thí sinh dự thi còn phải làm bài thi phần lý thuyết. Được biết năm học này Bộ GD&ĐT cũng sẽ tổ chức hội thi Viên phấn vàng, nên trong thể lệ dự thi có thêm phần thi lý thuyết.


116 vị giám khảo của hội thi


Và 217 thí sinh dự thi đợt này


Tặng hoa cho đại diện các tổ chấm thi


Tặng cờ cho đại diện các Phòng Giáo Dục và các trường THPT

Hội thi giáo viên giỏi là một hoạt động chuyên môn rất thiết thực và bổ ích cho giáo viên cũng như cho ngành Giáo Dục. Năm nay có 217 giáo viên dự thi giáo viên giỏi cấp tỉnh, có nghĩa là trong hai năm qua ngành giáo dục an giang có 217 giáo viên giỏi cấp huyện (và giỏi cấp tỉnh của những của những năm trước nữa chứ). Nếu số giáo viên giỏi ấy phát huy hết được khả năng của mình, có lẽ ngành giáo dục An Giang đã khởi sắc từ lâu rồi. Để được tham gia hội thi giáo viên giỏi cấp tỉnh, mỗi giáo viên phải trãi qua quá trình 2 năm giỏi cấp trường, 2 năm giỏi cấp huyện, có nghĩa là đến năm thứ năm mới được làm thí sinh thi giáo viên giỏi cấp tỉnh. Trong 4 năm ấy, những giáo viên tham gia thi GV giỏi phải cố gắng thật nhiều trong chuyên môn. Phải có sáng kiến kinh nghiệm, phải đạt những danh hiệu thi đua theo quy định...và cũng phải biết giữ mình. So với một giáo viên không dự thi, thì người muốn làm giáo viên giỏi phải đầu tư nhiều hơn từ thời gian, công sức, chất xám...nghĩa là cực hơn nhiều. Thế nhưng việc đãi ngộ lại làm nản lòng những người đạt danh hiệu. Ở cấp huyện, đạt giáo viên giỏi được thưởng 300 và giấy khen, còn cấp tỉnh thì 500 và bằng khen. Tiền thì chỉ đủ đãi bạn bè nhậu cốc ổi, giấy khen thì để đầu giường mà gậm nhấm niềm vui. Chỉ bấy nhiêu đó thôi, liệu có đủ kích thích giáo viên phát huy hết công suất để được tiếng là giáo viên giỏi. Còn quyền lợi thì khác chi những giáo viên bình thường. Mác nói Vật chất quyết định ý thức. Ở trong bất cứ một hoạt động nào thì giữa cung và cầu phải đảm bảo một sự tương quan nhất định. Tại sao các công ty tư nhân lại thu hút được nhiều người giỏi về làm việc. Vấn đề là họ được đánh giá đúng với thực chất năng lực của họ thông qua các chính sách đãi ngộ. Với đồng lương hiện tại, có giáo viên nào mà không phải xoay xở thêm để trang trãi cho cuộc sống. Nếu sau 5 năm cố gắng giáo viên đạt danh hiệu GV giỏi cấp tỉnh, có được những đãi ngộ mà trước tiên là phải khác với giáo viên không có danh hiệu, thì người giáo viên giỏi mới cảm thấy được kích thích, cảm thấy mình được đối xử công bằng ( cho những cố gắng trong hoạt động giảng dạy). Như thế họ mới có thể cố gắng để xứng đáng với danh hiệu và cả những ràng buộc về quyền lợi. Chính việc đãi ngộ quá thấp như thế, thông thường các GV chỉ tập trung cố gắng cho các lần thi các cấp. Thời gian còn lại họ cũng chẳng phát huy được gì trong giảng dạy,. Mà mục tiêu của ngành là sự phát huy khả năng sau cuộc thi mà. Đa phần giáo viên đi dự thi với nghĩ suy thi thì phải thi vậy mà. Vì không thể không thi. Nó là một trong tiêu chí đánh giá, xét thi đua cuối năm.
Hôm dự khai mạc, giờ giải lao, tôi đem ý kiến này trình bày với một số anh em trong tổ chấm thi. Nghe xong một vị chức sắc của ngành GD Châu phú có mặt phán một câu chắc nịch Giáo viên là phải có tâm, đâu thể đòi hỏi vật chất, mà phải luôn phấn đấu vì sự nghiệp giáo dục. Tôi không dám phản biện chút nào ! Ngay cả cái nền kinh tế định hướng XHCN còn phải thị trường hóa, huống hồ là những vấn đề liên quan đến đời sống con người. Làm sao có thể còn cách nghĩ của một thời mặc quần xà lỏn bắn AK.
Bên cạnh vấn đề đãi ngộ, thì cơ sở vật chất cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giảng dạy của người GV. Dự thi thì chuẩn bị đầy đủ, từ những đồ dùng dạy học đến sự hổ trợ của công nghệ thông tin. Nhưng khi về trường giảng dạy thì những thứ ấy đâu phải trường nào cũng được như trường chuyên Thoại Ngọc Hầu. Vạy là đành trở lại với cách dạy chay truyền thống. Như vậy làm sao phát huy được tối đa khả năng của các giáo viên giỏi.
Vấn đề là phải đồng bộ, từ sự đãi ngộ đến những điều kiện hổ trợ giảng dạy. Đó chính là môi trường tốt nhất để những giáo viên giỏi cố gắng phát huy tối đa khả năng của mình, xứng đáng với những đãi ngộ mà mình được nhận. Có như thế Hội thi giáo viên giỏi mới đạt được những mục tiêu đạt ra.

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2009

Đi tìm cái đẹp cho thư pháp chữ Việt Bài 2 Người viết thư pháp cần có những gì ?

Cái bóng (là ảnh chụp chứ không phải tranh cắt bóng)
Photo : Mai Cường (mình đưa lên photoshop làm lại phần nền)


Hôm rồi có một người bạn hỏi – Tôi muốn tập viết thư pháp, tôi cần phải có những gì. Tôi cười và bảo người bạn – thì chỉ cần giấy, mực, bút lông là đã có thể tham gia tập viết thâu đêm suốt sáng rồi. Thì nhìn bên ngoài quả có thế thật. Tập viết chữ thì chỉ cần bấy nhiêu là đủ rồi, chủ yếu là bỏ thời gian để rèn luyện kỹ năng viết chữ sao cho điêu luyện, làm chủ được ngòi bút của mình. Điều này rất quan trọng trong sáng tác thư pháp. Đôi khi ta muốn thực hiện một đường bút thật ngọt ngào cho một bố cục đã định sẵn trong đầu, nhưng bàn tay lại không thực hiện đúng điều mình nghĩ suy do kỹ năng rèn luyện chưa đạt đến độ chuẩn. Vì vậy việc rèn luyện viết thư pháp không phải chỉ ngày một ngày hai, mà nó phải là một quá trình lâu dài và liên tục. Chẳng phải Vương Hy Chi đã chỉ vào hàng tá chum vại đựng nước để bảo với con trai của mình rằng không có con đường tắt nào đi đến thành công dành cho người viết thư pháp. Chỉ có sự rèn luyện kiên nhẫn với thời gian, mỗi ngày qua đi kỹ năng sẽ tăng dần. Khi đã làm chủ được ngọn bút, lúc ấy thì thỏa chí tung hoành trên giấy, cái "lực" đã tòng cái "tâm" rồi thì mới thể hiện được điều mình nghĩ suy, mình ấp ủ. Tuy nhiên, thư pháp không chỉ là rèn luyện kỹ năng viết chữ. Con chữ chỉ là phương tiện, là cái phần bên ngoài để nhà thư pháp chuyển tải những đạo lý ẩn chứa phía sau những đậm nhạt sáng tối, phía sau những nét xổ nét hoành lung linh trên mặt giấy.Thư pháp cũng giống như hội họa, âm nhạc, ..hoặc những bộ môn nghệ thuật khác, đó là việc rất cần thiết phải rèn luyện cho mình những kỹ năng thực hành điêu luyện để nhằm thỏa mãn cho những sáng tạo bản thân. Nhưng kỹ năng chỉ là công cụ, còn sáng tạo lại là công việc của tư duy. Muốn phát huy được năng lực sáng tạo nghệ thuật của tư duy, đòi hỏi cần có một nền tảng kiến thức chung về nhiều mặt. Vì vậy luyện thư pháp đâu chỉ là viết mà còn phải đọc nhiều, tìm hiểu nhiều mặt trong cuộc sống.

Hiện nay thư pháp tiếng Việt đang được rất nhiều người tập luyện, mà đông nhất lại là các bạn trẻ. Chỉ cần mua một quyển sách dạy viết thư pháp cộng với sự khổ luyện, tập viết một cách thật sự có kỹ năng thì tưởng chừng như tất cả mọi người đều có thể trở thành nhà thư pháp. Vì vậy có rất nhiều bạn đến với thư pháp chủ yếu chỉ là luyện con chữ, thể chữ, cốt làm sao cho thật đẹp, thật điêu luyện còn thì ít chú ý đến chiều sâu về văn hóa, về thẩm mỹ mà một người viết thư pháp cần có. Đành rằng thư pháp là viết chữ, nhưng việc rèn luyện bút pháp cũng chủ yếu để thể hiện cái tư duy, cái nghĩ suy và những sáng tạo của người viết. Con chữ chỉ là phương tiện để truyền tải những thông điệp mà người viết muốn gửi gắm. Sự thành công của một bức thư pháp đâu chỉ là do chữ đẹp, bay bướm , mà nó là sự hài hòa của cả một tổng thể từ bố cục đến nội dung, từ cái hình tướng bên ngoài đến chiều sâu nội tại. Muốn được như vậy, người viết phải có một nền tảng nhất định về thẩm mỹ, về văn hóa và cả vốn sống. Nếu chỉ chú trọng đến việc luyện chữ mà không chú ý đến những yếu tố thẩm mỹ khác, người viết rất khó tiến xa.

Ai cũng có thể viết thư pháp được,chữ viết bản thân xấu đẹp không quan trọng, miễn sao có cố tâm rèn luyện ắt sẽ thành công . Tôi đã đọc một câu có nội dung gần như thế trong một quyển sách hướng dẫn viết thư pháp. Dĩ nhiên tôi cũng không phản đối điều này, nhưng theo tôi, nếu chữ viết thường ngày của ta xấu quá,khi rèn luyện thư pháp ta sẽ gặp phải một số khó khăn và khó tiến xa. Viết thư pháp là viết chữ, Vì vậy con chữ cũng phải đạt được những yếu tố thẩm mỹ nhất định mới có thể dẫn dắt người xem đi sâu hơn vào nội tâm bức thư pháp. Chữ viết thường nhật không đẹp, khi luyện viết chữ, người viết phải coppy lại mẫu chữ của người khác, khó tạo ra sự riêng tư – một yếu tố rất quan trọng trong nghệ thuật. Chữ viết của mỗi cá nhân là đặc thù riêng biệt, khó giống nhau. Vì vậy, có một căn bản chữ viết đẹp, sau khi đã thuần thục kỹ năng, người viết sẽ dễ dàng phát triển chữ viết của mình thành một phong cách riêng, và thuận lợi cho việc sáng tạo cái mới trong thư pháp.

Thư pháp Việt ra đời chủ yếu đáp ứng nhu cầu về văn hóa tinh thần. Trong một xã hội phát triển với nhịp sống hối hả như hiện nay, viết và thưởng ngoạn thư pháp cũng là một cách thư giản chống lại những căng thẳng trong cuộc sống . Nó như một thú thưởng ngoạn tao nhã của những người hoài cổ, yêu mến nghệ thuật truyền thống. Dù chỉ mới xuất hiện nhưng nó đã được đông đảo mọi người chấp nhận và hưởng ứng, điều này thật sự thuận lợi cho sự phát triển của bộ môn thư pháp chữ Việt. Tuy nhiên việc phát triển một cách rầm rộ và tự phát của nó cũng làm một số người tỏ ý quan ngại, cho rằng thư pháp có thể làm ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Có ý kiến còn xem việc viết thư pháp làm bôi bẩn chữ Việt. Phát biểu như thế có vẽ vội vã và quy chụp một cách thiếu suy xét. Có hay không những bức thư pháp thì chữ Việt hay tiếng Việt cũng không ảnh hưởng gì đến sự phát triển hay sự trong sáng của tiếng Việt. Thư pháp chỉ là thú chơi, thuần là nghệ thuật, mượn con chữ để gửi gắm vào đó những nghĩ suy, những khát vọng mang lại cho cuộc sống cái đẹp. Mục đích cuối cùng của nó là thưởng ngoạn, hoặc hơn thế nữa là để chuyển tải những giá trị đạo đức nhân văn, những đạo lý của người xưa. Xét cho cùng vai trò của một bức thư pháp Việt giống như một bức tranh được viết bằng chữ, mà trên đó những con chữ được sắp xếp với các mãng đậm nhạt sáng tối khác nhau tạo thành một sự tương phản nhưng lại hài hòa trong một tổng thể hoàn chỉnh. Viết thư pháp chữ Việt đâu phải chỉ là một sự dàn trãi đều đặn các con chữ trên mặt giấy. Đôi khi để tìm một bố cục chặt chẻ, hợp lý cho nội dung văn học cần thể hiện,người viết thư pháp phải mất đến mấy ngày để chọn cho mình một bố cục ưng ý nhất rồi mới quyết định phóng bút. Có những câu đối, câu thơ có nội dung rất hay nhưng hình dáng con chữ không thuận lợi khi thể hiện, trong trường hợp này người viết phải thật sự đắn đo tính toán bố cục để có thể bù được vào khiếm khuyết ấy mà vẫn tạo nên được sự thành công của bức thư pháp. Muốn làm được như thế, người viết phải có một nền tảng căn bản cần có về hội họa, một chiều sâu thẩm mỹ nhất định. Sáng tạo là công việc của tư duy, nhưng nó phải được dựa trên những hiểu biết nhất định về nghệ thuật về xã hôi, có như thế tác phẩm mới đi đúng hướng và không trở nên lập dị. Cái đẹp theo quan điểm cá nhân của mỗi người hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu không dựa trên nền tảng những chuẩn mực về cái đẹp của thời đại, của xã hội, chắc rằng tác phẩm sẽ trở nên lạc lõng, không hòa vào được với hơi thở của cuộc sống.

Nội dung các bức thư pháp chữ Việt hiện nay rất đa dạng, và phong phú. Các sáng tác thường sử dụng các câu danh ngôn, câu đối chứa đựng những giá trị đạo đức, những tư tưởng nhân văn, hoặc các câu thơ hay, sâu sắc của các tác giả nổi tiếng. Vì vậy để nội dung các bức thư pháp của mình phong phú, có chiều sâu, người viết cũng cần phải có một vốn đọc phong phú, một khả năng cảm nhận văn học nhất định. Khi chọn một câu thơ hay câu đối để thể hiện, người viết cần phải hiểu những giá trị tư tưởng chứa đựng trong nội dung câu chữ, để từ đó bằng ngòi bút của mình truyền tải đến người xem, tạo nên sự đồng cảm , gặp nhau giữa người xem và người viết Muốn hiểu thấu đáo những nội dung câu chữ mình viết, cần tìm hiểu nhiều thứ, từ văn học, lịch sử, nghệ thuật….chính cái nền tảng kiến thức kia sẽ giúp tư duy sáng tạo nên những cái mới, cái đẹp, phù hợp với nhịp sống phát triển xã hội. Bên cạnh, khi có được một vốn văn hóa, xã hội và kiến thức đủ chiều sâu, chiều rộng, người viết sẽ dễ dàng tìm được những những đề tài, những nội dung sâu sắc, có giá trị nhân văn cao. Tránh được việc lập lại của người khác hay quanh quẩn ở những đề tài quen thuộc

Như vậy viết thư pháp đâu chỉ là việc rèn luyện kỹ năng viết chữ bằng bút lông, một bức thư pháp đâu chỉ là con chữ mà nó là một tác phẩm với một sự tổng hoà rất nhiều yếu tố nghệ thuật như : hội hoạ, thi ca, âm nhạc, thiền học....Vì vậy đến với thư pháp, song song với việc rèn luyện kỹ năng chấp bút, thì đọc và tìm hiểu học hỏi cũng là một vấn đề không thể xem nhẹ. Sáng tạo nào cũng phải dựa trên những nền tảng nhất định, nó có thể đi trước thời đại nhưng nó vẫn phải luôn mang tính kế thừa chứ không thể là một thứ "từ đất nẻ chui ra", không giống trước cũng chẳng thể có sau. Kỹ năng và kiến thức phải xem trọng như nhau, sự tương đồng giữa hai mặt sẽ giúp người viết dễ dàng thực hiện những ý đồ nghệ thuật, nâng cao giá trị tác phẩm. Nghệ thuật phải là những rung động chân thực trước cuộc sống, ở một góc độ nào đó thư pháp Việt cũng đang tiếp nối truyền thống "văn dĩ tải đạo" của cha ông ta. Không chỉ là thưởng ngoạn, giải trí mà nó còn đem đến một giá trị tinh thần, tính nhân văn và những triết lý sống, hướng đến cái chân của thiện và mỹ. Do vậy, người viết cũng cần có cái tâm trong sáng, trong một nhân cách được rèn luyện, mở lòng ra với cuộc sống, với đất trời. Đó cũng chính là cái đạo của người luyện thư pháp vậy.

Trên đây là những nghĩ suy của bản thân trong mong muốn đóng góp vào sự phát triển của thư pháp Việt. Chắc rằng còn rất non nớt, rất mong được các bậc tiền bối, các bậc đàn anh lượng thứ và chỉ giáo


Thứ Tư, 22 tháng 4, 2009

Đi tìm cái đẹp cho thư pháp chữ Việt - Bài 1: Thư pháp chữ Việt và điều cần có



Những năm gần đây, phong trào viết thư pháp chữ Việt ngày càng phát triển rằm rộ khắp nơi trong cả nước.Ngày càng có nhiều người đến với bộ môn này. Cũng giản đơn thôi mà, chỉ cần một cây bút lông, một hộp mực pha sẵn (loại này có bán ở tất cả các chợ), một vài tờ giấy là có thể phiêu du vào thế giới con chữ lung linh, huyền bí. Chính cái sự giản đơn, ít tốn kém này mà bộ môn thư pháp chữ Việt nhanh chóng thu hút đông đảo số lượng người quan tâm và tham gia. Ai cũng có thể viết thư pháp được, miễn chịu khó rèn luyện là được . Trăm hoa đua nở, ở khắp các địa phương trong nước thư pháp chữ Việt phát triển rằm rộ, tạo thành một phong trào sôi nổi. Có thể nói đây là một tín hiệu đáng mừng về đời sống xã hội và cho sự phát triển của nghệ thuật thư pháp chữ Việt. Tuy nhiên, điều chúng ta đáng quan tâm là phong trào thư pháp chữ Việt phát triển ở khắp nơi chủ yếu chỉ là tự phát mà không có một định hướng, hay một chuẩn mực nhất định. Mối nơi mỗi vẽ. Ai cũng có thể là nhà thư pháp, chẳng có một sự thẩm định, hay một thước đo nào. Chính cái tự phát ấy phần nào ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của bộ môn thư pháp đang còn rất non trẻ. Phát triển tự phát cũng dễ hiểu thôi, Thư pháp tiếng việt chỉ mới xuất hiện trong ba chục năm trở lại đây, chưa hề có một chuẩn mực nào, một hệ thống lý luận nào thậm chí đến giờ nó vẫn chưa được xem chính danh là một bộ môn nghệ thuật.Với những người tự học thì tình hình càng khó khăn thêm. Lấy cái gì để mà tự thẫm định , so sánh, đối chiếu, còn cầm đi hỏi ư ? người không rành thì gật gù tán thưởng ( cũng chả biết họ tán thưởng cái gì), còn người có am hiểu thì lại né tránh trả lời hoặc trả lời một cách chung chung vô thưởng vô phạt. Cũng khó trách, nếu người được góp ý cầu tiến biết tiếp thu thì không nói, nhưng nếu họ phản ứng và cho rằng căn cứ vào đâu để có những ý kiến như thế thì người góp ý cũng khó mà trả lời vì hiện nay thư pháp chữ Việt đâu đã có một nền tảng lý luận để có thể minh chứng cho những ý kiến của mình.Thực ra thư pháp tiếng Việt hiện chỉ mới xuất hiện như một trào lưu, một thú chơi tao nhã. Nó chưa đủ thời gian để có đủ độ dày, độ sâu như những bộ môn nghệ thuật khác như nhiếp ảnh, hội họa….Dạo qua tất cả các sách viết về thư pháp tiếng Việt hiện nay, hầu như chủ yếu là hướng dẫn căn bản luyện thư pháp, giới thiệu tác phẩm, còn phần giới thiệu về sự phát triển của thư pháp thì chủ yếu là thư pháp chữ Hán, thư pháp Thiền Nhật Bản. Nói như thế để chúng ta thấy rằng về lý luận Thư pháp tiếng Việt hầu như chưa có gì cả. Chuẩn mực nào dành cho một bức thư pháp đẹp, đạt chất lượng nghệ thuật , sự phát triển của thư pháp tiếng Việt dựa trên một nền tảng lý luận nào…. dường như hiện tại thư pháp tiếng Việt chưa có câu trả lời. Chính vì vậy mà thư pháp Việt hiện tại phát triển tự phát củng là điều dễ hiểu. Thì cứ thế mà xông vào, biết dựa vào đâu để làm chuẩn bây giờ. Có người lo rằng chính việc phát triển tự phát như thế có nguy cơ thoái trào dẫn thư pháp tiếng Việt vào ngõ cụt . Tôi thì không quá bi quan như vậy. Từ một thú chơi, một sở thích của một số người trở thành một bộ môn nghệ thuật chính danh, có lý luận, có phê bình hẳn hoi không thể là một sớm một chiều. Nghệ thuật đích thực luôn được thử thách với đời sống và với thời gian. Chính trong sự phát triển của cả một cánh rừng, chúng ta sẽ tìm được những cây gổ quý có thể làm nền tảng để xây dựng nên những lâu đài.

Mặc dù thư pháp chữ Việt căn bản là kế thừa cách viết chữ hán bằng bút lông của thư pháp Trung Quốc, nhưng rỏ ràng sự phát triển của hai nền chữ viết hoàn toàn khác nhau nên vị trí của thư pháp tiếng việt không thể giống với thư pháp chữ hán trong dòng chảy của lịch sử mỗi dân tộc. Bên cạnh một bên là chữ vuông tượng hình, một bên là chữ la-tinh tượng thanh, cách viết cũng sẽ khác nhau, hoàn cảnh ra đời khác nhau, mục tiêu hướng đến cũng không giống nhau, vì vậy, không thể lấy chuẩn mực của một bức thư pháp chữ hán mà thẫm định hay đánh giá cho một bức thư pháp chữ Việt. Cái mà thư pháp Việt đang thiếu đó chính là một hệ thống lý luận làm nền tảng, một chuẩn mực nhất định và một định hướng cho tương lai .Khi chúng ta có một nền tảng lý luận , một hướng đi rỏ ràng chúng ta mới có thể có cái để dựa vào mà phê bình, mà uốn nắn, mà gợi ý , mà định hướng cho sự phát triển của nghệ thuật thư pháp chữ Việt. Điều quan trọng hiện nay theo thiển ý của tôi, đó là một nổ lực nhằm làm chính danh bộ môn nghệ thuật thư pháp chữ Việt. Dĩ nhiên điều này không đơn giản và củng không thể là một sớm một chiều. Cuộc sống chính là một trãi nghiệm và đó cũng chính là môi trường phản biện tốt nhất giúp cho các bộ môn nghệ thuật điều chỉnh uốn nắn mình để tự hoàn thiện, tồn tại và phát triển trong dòng chảy của nó. Thư pháp chữ Việt cũng không thể là một ngoại lệ. Chỉ mới xuất hiện vài chục năm và chủ yếu là tự phát, chúng ta làm sao đòi hỏi vị trí của bộ môn thư pháp chữ Việt có thể cao hơn hiện tại được. Muốn có được một hệ thống lý luận đủ để đưa thư pháp Việt trở thành một bộ môn nghệ thuật, điều nầy thuộc về trách nhiệm của các nhà thư pháp Việt, những người yêu thích bộ môn này, có tham gia thực hành, nghiên cứu. Chính trong thực tiễn của quá trình rèn luyện, sáng tạo, mỗi người sẽ rút ra được những trãi nghiệm thực tế, từ đó đúc kết thành những lý luận phục vụ cho xây dựng một hệ thống lý luận cho bộ môn. Trong những năm qua, đã có rất nhiều nhà thư pháp chữ Việt có những nỗ lực đóng góp nhằm xây dựng một nền tảng lý luận cho thư pháp Việt.Chúng ta thật sự trân trọng những đóng góp của họ. Nhưng công bằng mà nói, đó cũng chỉ là một sự tự phát, chỉ là những cố gắng đơn lẽ chưa đủ để tạo thành một hệ thống bao quát toàn bộ nội dung của thư pháp Việt.

Đây là một vấn đề lớn lao, không phải sức của một hai người có thể làm được. Xây dựng một hệ thống lý luận cho thư pháp Việt là một trong những mối quan tâm và mong mỏi của hầu như tất cả những ai yêu mến thư pháp chữ Việt. Nhưng nếu cứ phát triển tự phát như thế này thì vấn đề vẫn mãi sẽ không giải quyết được. Hiện nay trên mạng cũng đã có nhiều diễn đàn trao đổi về lý luận thư pháp, nhưng số lượng bài viết có chất lượng không nhiều, các diễn đàn do một nhóm các nhà thư pháp ở những địa phương khác nhau lập nên, chủ yếu là giới thiệu, quảng bá, vì vậy chưa tập họp được được tâm huyết trí tuệ của cộng đồng thư pháp Việt. Nên chăng có một sự liên kết giữa tất cả các nhà thư pháp chữ Việt trong phạm vi cả nước. Dĩ nhiên để mọi người cùng nhìn về một hướng cũng không không đơn giản, nó đòi hỏi cái Tâm của mỗi người dành cho một mục đích chung .Trong điều kiện hiện nay, chúng ta có thể tổ chức liên lạc, trao đổi, đàm đạo, đóng góp , tranh luận về học thuật thông qua một diễn đàn mạng thống nhất với tiêu chí vì một nền lý luận cho thư pháp Việt. Ở đó mỗi người sẽ bày tỏ quan điểm của mình, trình bày những nhận định, những kết quả đạt được trong quá trình thực hành, nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến học thuật thư pháp. Khi điều kiện chín muồi chúng ta tổ chức một hội thảo với quy mô lớn, rộng rãi để đúc kết những thành tựu trong quá trình trao đổi, tranh luận trên diễn đàn. Từ đó tạo thành một hệ thống lý luận nền tảng ban đầu cho thư pháp. Sau khi đa có được cái sườn chính thì việc bổ sung hoàn thiện chỉ còn lại là vấn đề thời gian.

Đông tay thì vỗ nên kêu, đó là đạo lý mà ông bà ta đã đúc kết từ bao đời nay. Với sức lực, tâm huyết, và trí tuệ của nhiều người chắc chắc điều này không khó lắm. Điều quan trọng là có tập họp được hết sức lực của cả cộng đồng những người viết thư pháp, điều này đòi hỏi cái tài của các nhà tổ chức và cái tâm của những người tham gia. Khi mọi người cùng nhìn về một phía với một tấm lòng rộng mở, có cùng một mối quan tâm vì tương lai thư pháp Việt, thì mục tiêu xây dựng một nền tảng lý luận cho bộ môn sẽ không phải là điều xa vời.

Là một người yêu mến thư pháp chữ Việt và cũng tập tễnh tự học, tôi xin mạn phép nêu một số suy nghĩ của bản thân mình với lòng mong muốn vì tương lai thư pháp Việt. Rất mong các bậc tiền bối, các vị đàn anh lượng thứ và chỉ giáo.

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2008

Người nghèo...bao giờ hết nghèo !

Mấy hôm nay bảo ở đâu đó ngoài biển Đông làm trời cứ mưa suốt. Cả ngày không thấy nắng, bầu trời chỉ toàn mây xám xịt một màu. Trời như thế này thì khổ cho những người lao động nghèo rồi. Buôn bán ế ẩm, bao nhiêu công việc phải ngưng lại thì ai mà thuê người làm. Ở cái thời buổi " gạo châu củi quế" này,cuộc sống của những người lao động thật sự quá bấp bênh. Tiền công lao động của một ngày sau khi chi cho cái ăn xong củng chẳng còn lại bao nhiêu, rồi còn những nhu cầu khác nữa. Vậy là chẳng còn gì để dành lại cho những ngày không có việc làm. Trời mưa liên tục ba bốn ngày thế này, chắc chắn sẽ có nhiều gia đình lao động nghèo lại phải chịu cảnh "giật gấu vá vai", mượn tạm chổ này , "quơ" vội chổ kia, chủ yếu chỉ để trang trải cái ăn. Chiều nay, vợ chồng đứa cháu trong xóm sang mượn ít tiền đong gạo. Hai vợ chồng trẻ, mới có đứa con đầu lòng vào lớp 1, gia đình cha mẹ đều nghèo chẳng giúp gì được. Không có nghề nghiệp, trình độ văn hoá lại thấp, hai vợ chồng làm cu li trộn hồ cho công trình xây bệnh viện của huyện củng chỉ đủ trang trải cuộc sống hàng ngày. Mấy hôm nay công trình ngưng lại do mưa, vợ chồng đành ngồi bó gối nhìn mưa suy nghĩ xem mượn tiền ở đâu để trang trãi cho những ngày ngồi không này. Còn vợ chồng chị Tư nhà bên thì bốn ngày nay ăn bún thay cơm. Nồi bún cá nuôi cả nhà mấy hôm nay ế vì mưa dầm, báo hại cả nhà phải bất đắc dĩ phải làm khách cho chính mình. Xóm tôi có hai lớp nhà. Lớp ở phía trước là những gia đình sống bằng nghề buôn bán hoặc là cán bộ công chức nên cuộc sống tương đói ổn định. Còn ở phía sau, mấy chục nóc gia đều là những gia đình lao động nghèo, cuộc sống của họ luôn phụ thuộc vào nhu cầu thuê mướn lao động ở địa phương. Họ làm việc chăm chỉ, nhưng thu nhập củng chỉ đủ sống bấp bênh qua ngày. Có quá nhiều thứ nằm ngoài khả năng thu nhập của họ. Giá cả các mặt hàng thiết yếu tăng vùn vụt, trong khi đó tiền công của người lao động thì chẳng tăng lên được bao nhiêu. Ngày qua ngày, họ luôn phải đối mặt với sự thiếu hụt. Qua được hôm nay lại phải lo cho ngày mai, cuộc sống có lúc nào thảnh thơi, an tâm cho chuyện " cơm áo gạo tiền". Bình thường chỉ phải lo đói lo no, nhưng những khi đau yếu bệnh hoạn thì quả cuộc sống thật sự là một gánh nặng. Vợ chú Bằng ở phía sau , nhà đông con lại nghèo, tối ngày làm thuê hết chổ này đến chổ kia, những khi bệnh không dám nghĩ, uống thuốc nam qua quít rồi mang con bệnh đi cùng đến chổ làm, hàng ngày ăn uống tiện tặn để lo cho con. Rồi một ngày xấu trời, cái cơ thể ấy không còn chịu đựng nổi trước phong ba cuộc đời, thiếm bị đột quỵ do suy dinh dưỡng và làm việc quá sức. Bây giờ người đàn bà mới trên 40 tuổi ấy chỉ như một cọng lau trước gió, nắng không ưa mưa không chịu : thiếm bị lao phổi nặng, hậu quả của những ngày ăn uống thiếu thốn lại phải lao động vất vả. Trong cuộc sống hiện tại, có bao nhiêu xóm nghèo với những mãnh đời như thế ? bao nhiêu số phận đã phải chấp nhận với những nghiệt ngã của cuộc sống chỉ vì họ nghèo. Việt nam đang đi vào hội nhập, kinh tế ngày một phát triển, cuộc sống vật chất tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện. Thế nhưng, song hành với sự phát triển ấy cái hố ngăn cách giàu nghèo củng ngày một nới rộng ra. Trong cái cơ chế kinh tế thị trường, đã xuất hiên không ít những triệu phú, những tỷ phú, thành đạt, sống một đời sống vật chất đầy đủ, thoải mái. Nhưng bên cạnh đó một bộ phận dân nghèo không nhỏ phải thường xuyên đối mặt với những biến động về giá cả, vốn là sự tất yếu của thị trường. Với họ chỉ là chuyện cơm áo gạo tiền thôi, củng đã phải tất tả ngược xuôi rồi. Tiền công lao động thì không tăng bao nhiêu, trong khi đó giá các mặt hàng thiết yếu tăng lên vùn vụt, tự dưng giá trị ngày công lao động bị hạ xuống. Người lao động nghèo sẽ được chia phần bao nhiêu trong chiếc bánh kem sữa đầy vẽ hào nhoáng được gọi là lợi nhuận. Với thời giá như hiện tại, thì đồng lương mà họ nhận chỉ đủ tái sản xuất lại sức lao động. Ở miền tây, hầu như lao động trẻ ở nông thôn đều đổ về các khu công nghiệp ở Bình Dương, Long An, TP.Hồ Chí Minh, hoặc phu việc nhà, phụ quán ăn trong nội ô TP.HCM. Họ là những lao động nghèo, không có đất sản xuất hoặc có đất nhưng nằm trong khu vực quy quạch giải toả. Có một thực tế là hầu như các khu lao động nghèo ở các thị xã, thị trấn trong phạm vi cả nước đều có những quy hoạch nhằm chỉnh trang độ thị, phất triển nông thôn. Có những nơi làm tốt công tác đền bù giải toả và tái định cư, tạo được công ăn việc làm cho người lao động. Nhưng lại củng có quá nhiều nơi thực hiện một cách qua quít vội vả, đưa dân vào trong các "cụm tuyến dân cư" trong khi hạ tầng cơ sở vẫn chưa hoàn chỉnh. Đường xá lầy lội, thiếu nước , thiếu điện, việc làm lại không có, loay hoay là đã ăn hết cả số tiền đền bù giải toả. Họ vốn đã nghèo, bây giờ còn nghèo hơn nữa. Ở nông thôn có được bao nhiêu việc làm, họ đành phải chấp nhận với cuộc sống xa nhà, đổ xô về các khu chế xuất, khu công nghiệp với hy vọng kiếm được một ít vốn sau năm ba năm làm việc. Nhưng với tình hình vật giá luôn biến động như hiện tại, đồng lương trung bình từ 1 triệu rưởi đến 2 triệu rưởi trên tháng, họ sẽ dành lại được bao nhiêu sau khi đã chi trả cho các khoản ăn, trọ và những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống. Những lao động ở lại nông thôn thì công việc làm không ổn đinh, nó tuỳ thuộc vào từng thời điểm, người lao động luôn phải đối mặt với vấn đề "hết việc", nên cuộc sống của họ vốn đã không ổn định lại càng bấp bên hơn. Ông bà ta có câu " tận nhân lực mới tri thiên mạng", đâu phải ai trong số những người nghèo đều là người lười biếng ngại lao động. Tất cả mọi người đều mong muốn mình và gia đình có một cuộc sống tốt hơn, họ đã cố gắng hết sức mình rồi, đã " tận nhân lực " rồi, nhưng cuộc sống vẫn không khá hơn. Có lẽ giờ đây họ chỉ còn chờ "Thiên mạng" xem có phép màu nào cho những lúc bức bách vì những đòi hỏi hàng ngày.
Có thể nói người lao động nghèo hiên nay luôn gặp phải những khó khăn vật chất trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cho dù họ có việc làm ổn định hay không ổn định. Chính việc tăng giá của các mặt hàng đã làm cho giá trị ngày công lao động của họ trở nên rẻ mạt. Giải pháp nào cho người nghèo, đây là một bài toán lớn mà câu trả lời không phải giản đơn và không phải một vài cá nhân có thể làm được. Tuy nhiên nếu như các nhà quản lý có thể bình ổn được giá cả các mặt hàng thiết yếu và có những chính sách hợp lý trong việc định hướng tiền công lao động, sẽ giãm được phần nào gánh nặng chi tiêu của người lao động. Làm sao, sau khi chi cho cái ăn rồi, họ vẫn còn lại chút ít dành cho các nhu cầu khác, nâng cao mức sống lên so với hiện tại. Đối với các khu quy hoạch, điều cần thiết là cái tâm của những người làm công tác tái định cư , cần đặt lợi ít thiết thực của người dân lên đầu, nhất là vấn đề tạo công việc làm. Thông thường khi đến một nơi ở mới, phải mất một, hai năm mới có thể ổn định cuộc sống, nếu như có được sự hổ trợ, giúp đở tư bên ngoài, người lao động sẽ rút ngắn thời gian chờ việc, giãm bớt những khó khăn trong đời sống.
Người nghèo...bao giờ hết nghèo ? có lẽ đây là một câu hỏi khó tìm ra lời giải đáp trong một sớm một chiều. Nhưng với những chính sách hợp lý trong việc quản lý, bình ổn giá cả thị trường, củng như các chính sách về lao động tiền lương, chắc chắn người lao động sẽ được hưởng lợi, đời sống của họ sẽ phần nào được cải thiện. Vấn đề đặt ra là cần phải có sự đồng bộ khi thực hiện các giải pháp, có như thế mới phát huy được tác dụng trong việc giải quyết bài toán cho người nghèo. Những năm gần đây chúng ta đã chi rất nhiều tiền cho cho công tác xoá đói giãm nghèo, và củng có nhiều báo cáo ở nơi này nơi kia đã giãm được tỷ lệ hộ nghèo. Thế nhưng nghèo giàu đâu phải chỉ là những con số, mà nó liên quan đến từng số phận của những con người, vì vậy hãy thực hiện công tác này bằng cái tâm, điều mà ông bà ta từng dạy:
Nhiểu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2008

Đào tạo liên kết Giáo viên âm nhạc sư phạm và một số hạn chế

Kể từ khi Bộ Giáo Dục và Đào Tạo chủ trương đưa bộ môn âm nhạc vào trường phổ thông, Sở Giáo Dục Đào Tạo An Giang đã có những cố gắng bằng nhiều hình thức tổ chức đào tạo đội ngủ giáo viên giảng dạy bộ môn âm nhạc phần nào đã đáp ứng được nhu cầu nhân lực của tỉnh nhà. Với sự thành lập của trường Đại học An Giang, việc đào tạo đội ngủ giáo viên âm nhạc càng có những thuận lợi. Trong những năm qua , bằng hình thức liên kết đào tạo với trường Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh, mỗi năm đều có một số lượng giáo viên âm nhạc THCS được đào tạo chính quy bổ sung cho các trường THCS. Tính đến thời điểm hiện tại, hầu như tất cả các trường THCS trong địa bàn tỉnh đã có giáo viên dạy môn âm nhạc.
Để đáp ứng nguồn GV của địa phương, việc liên kết đào tạo GV âm nhạc với trường Đại học sư phạm TP.Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn trong điều kiện chưa đủ nhân lực củng như pháp nhân đào tạo. Bằng nhiệt tình và chuyên môn của mình, trong những năm qua, các giảng viên âm nhạc của trường Đại Học Sư Phạm TPHCM đã có những đóng góp to lớn trong việc đào tạo,xây dựng một đội ngủ giáo viên dạy âm nhạc cho tỉnh. Tuy nhiên, phương thức đào tạo liên kết củng có những hạn chế nhất định. Do đào tạo liên kết nên việc xếp lịch học hoàn toàn phụ thuộc vào thời khoá biểu của các giảng viên, chủ yếu là vào các kỳ hè hoặc khi Thầy cô không có giờ dạy ở trường ĐHSP TP.HCM. Vì vậy không thể rãi đều các tiết học ra trong học kỳ,mà thông thường mỗi học phần (60 tiết) được dồn vào trong một tuần ( mỗi này 10 tiết). Đối với các môn kiến thức như : lịch sử âm nhạc, nhạc lý cơ bản... thì có thể tiếp thu được, sau đó " tiêu hoá "dần dần, nhưng đối những môn năng như nhạc cụ , thanh nhạc... thì tình hình có vẽ khó khăn thật sự cho cả thầy lẫn trò. Trong quy chế tuyển sinh thì phần nhạc cụ không phải là nội dung thi bắt buộc mà chỉ là điểm khuyến khích, vì vậy đa số sinh viên khi đậu vào lớp CĐSP âm nhạc đều chưa biết đàn. Với sáu ngày cho học phần đầu tiên, thì sinh viên chỉ mới biết cách sử dụng đàn organ và hoàn thành một vài bài tập ngón. Nhạc cụ là một trong những môn năng mà cho dù người học có năng khiếu đến đâu, vẫn phải có một thời gian tập luyện nhất định (đủ với từng cá nhân). Đối với môn thanh nhạc thì những kỹ thuật như cộng minh, vị trí âm vang, nhã chữ... là những thuật khó, từ chổ cảm nhận được phần kỹ thuật đến vịệc thực hiện lại là cả một quá trình rèn luyện, nó đòi hỏi phải có một quãng thời gian đủ mới có thể thấu đáo và thực hiện đúng với yêu cầu. Nếu sáu chục tiết được phân bố đều cho cả học kỳ, thời gian rèn luyện sẽ nhiều hơn, củng như ở mỗi học phần số kỹ năng sẽ được cung cấp nhiều hơn. Có thể nói chỉ với sáu ngày cho một học phần, thì cả thầy lẫn trò chỉ có thể tập trung vào một vài bài để hoàn thành điểm số học phần. Cho dù Giáo viên có tâm huyết và chuyên môn cao đến đâu củng không thể khác hơn được. Ở mỗi lớp học thì chuyện chênh lệch trình độ nhau là chuyện bình thường, trong âm nhạc chuyện chênh lệch về mặt năng khiếu lại càng rỏ rệt. Một thời khoá biểu hợp lý sẽ giúp các em có thời gian bù lại mặt hạn chế kia, nhưng với thời gian ngắn quá các em phải chấp nhận yêu cầu tối thiểu ( tập một bài để thi học phần). Đối với giảng viên, việc giảng dạy luôn phải dựa trên tiếp thu của từng lớp mà có các yêu cầu phù hợp, nên phải theo mặt bằng chung, cho dù có muốn nâng chuẩn kiến thức củng không thực hiện được. Đối với những học sinh giỏi, năng khiếu tốt đành chấp nhận với việc hỏi thêm thầy cô ngoài thời gian chính khoá để tự nâng cao. Ở mỗi đợt ra trường hàng năm của sinh viên CĐSP âm nhạc An giang, chỉ khoảng ba bốn em được xem là đánh đàn giỏi, mà thường thì rơi vào những em đã biết đánh đàn từ trước hoặc có điều kiện tự mua sắm nhạc cụ rèn luyện. Chúng ta có thể đánh giá khả năng sử dụng nhạc cụ của giáo viên âm nhạc trong tỉnh theo tỷ lệ sau :
--Từ 10% đến 15% có thể tham gia đệm đàn cho các hoạt động âm nhạc ngoài nhà trường ( Đám tiệc, liên hoan, các hội thi..)
--Khoảng 30% đến 40% có thể đãm bảo cho các sinh hoạt, phong trào trong nhà trường.
--Khoảng 40% đến 50% trực tiếp đành đàn trong các tiết dạy.
--Khoảng 50% giáo viên âm nhạc hiện nay chấp nhận với mức tối thiểu, có nghĩa là chỉ đàn được giai điệu đơn khi dạy hát, còn lại đều sử dụng phần nhạc nền được làm trước.
Điều này củng một phần chủ quan về ý thức rèn luỵên của cá nhân, nhưng nếu ngay từ trong đào tạo chúng ta có một thời gian củng như lượng kỹ năng hợp lý , sẽ tạo nên một chuẩn bắt buộc của giáo viên khi ra trường. Thực hành tự học, tự rèn luyện nhạc cụ là điều khó cả về thực hành lẫn về kiến thức kỹ năng. Khi đã có được những kiến thức và kỹ năng nền nhất định, thì việc tự học sẽ dễ có kết quả, tạo nên sự thích thú, nó củng giúp hiểu thấu đáo hơn những môn lý thuyết. Nhưng khi có quá ít vốn kỹ năng thì việc tự rèn luyện đánh đàn sẽ rất khó khăn, dễ làm nản chí , chính vì vậy có thể nói có đến nữa số giáo viên dạy âm nhạc trong tỉnh sau khi ra trường thì hầu như không rèn luyện gì thêm.
Mục tiêu giảng dạy âm nhạc trong trường phổ thông không phải là dạy học sinh đàn giỏi hát hay mà là hình thành ở các em một tình cảm trong sáng, lòng yêu nghệ thuật âm nhạc nhằm giúp các em phát triển hài hoà về nhân cách. Muốn đạt được mục tiêu đó trong tình hình âm nhạc thị trường phức tạp như hiện nay không phải dễ. Nó đòi hỏi mỗi giáo viên âm nhạc không chỉ là cái tâm đối với nghề mà điều quan trọng là cái "tài" của người thầy. Muốn học sinh yêu thích bộ môn điều quan trọng là học sinh có thật sự nể phục thầy hay không thông qua chuyên môn và phong cách của người thầy .Từ sự nể phục sẽ tạo ra một thái độ tích cực trong học tập khi thầy cô của chúng đàn giỏi hát hay. Tâm lý của học sinh rất thích được nghe thầy cô giáo trực tiếp hát minh hoạ trên lớp hơn là nghe băng đĩa. Với sự bùng nổ thông tin như hiện nay, các em có thể nghe những bài hát ấy qua băng đĩa bán trên thị trường hoặc qua mạng rất dể dàng. Chủ yếu các em muốn được nghe tiếng hát tiếng đàn thật sự, nó sống động ngay trước mắt chứ không phải giọng hát phát ra từ loa (Tôi đã dự những giờ mà học sinh chăm chú nhìn, nghe say sưa khi thầy biểu diễn, các em tỏ rỏ sự thán phục thật sự, và cũng đã dự những giờ mà học thì thào lo ra khi nghe đĩa bài hát minh hoạ). Được nhìn , được nghe trực tiếp sẽ tác động nhiều đến tâm tư tình cảm của các em. Ở một góc độ nào đó khi các em nể phục tài năng của GV, tự nhiên sẽ dẫn đến việc yêu thích bộ môn. Để cho học sinh có thể cảm thụ và yêu thích một tác phẩm âm nhạc do thầy cô giáo trinh bày, thì lúc này người giáo viên phải diễn tấu tác phẩm với một chất lượng nghệ thuật đủ để đạt được mục tiêu giảng dạy. Nó không chỉ đơn thuần là thị phạm, minh hoạ mà là biểu diễn, và lúc này người giáo viên phải như là một nghệ sỹ. Trong giờ học hát củng thế, các em thích được thầy cô đệm đàn trực tiếp, tiếng đàn của thầy, tiếng hát của trò hoà vào không khí buổi học với những tình huống sư phạm thật sự. Còn nếu hát trên nền nhạc thu sẵn trong đàn organ củng giống như khi các em hát karaoke ở nhà. Muốn làm được điều này người GV phải có một kỹ năng nhất định cho tất cả các môn âm nhạc . Chúng ta không thể đòi hỏi tất cả các giáo viên đạt được một trình độ đồng đều như thế, nhưng trong chiến lược phát triển giáo dục củng cần phải phải phấn đấu đến một chuẩn mực nào đó để có thể đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.Với sáu học phần chia đều cho sáu học kỳ,và một thời khoá biểu phù hợp, sinh viên sẽ được tập luyện nhiều để có thể đạt một chuẩn kỹ năng nhất định khi ra trường. Trong chương trình đào tạo GV âm nhạc hiện nay của Đại Học An Giang phần nhạc cụ chỉ có môn organ , vì vậy các giáo viên thường xuyên bị động và lên lớp "chay" nếu gặp phải sự cố cúp điện, trong khi mỗi trường THCS , Sở GD ĐT An Giang cấp trên 15 đàn guitar. đành phải nằm im vì hầu như ít GV biết sử dụng Guitar. Bên cạnh guitar là một nhạc cụ phổ biến , cơ động, không phụ thuộc vào điện, và rất phù hợp với các sinh hoạt tập thể ngoài trời. Nên đưa phân môn guitar vào chương trình đào tạo chính khoá, để khi ra trường GV dạy âm nhạc có thể sử dụng được hai loại nhạc cụ : guitarorgan , để giáo viên không bị động khi có những sự số, củng như đáp ứng tốt cho giảng dạy và phong trào ở cơ sở.
Cả nước chúng ta đang thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục, tiến tới bắt kịp và hoà nhập với giáo dục các nước trong khu vực. Trong mục tiêu ấy, có thể nói lực lượng giáo viên đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì vậy việc nâng cao trình độ, kỹ năng của giáo viên là điều cần thiết. Với khoảng 50% giáo viên ( đây chỉ là tỷ lệ ước tính, trên thực tế không thể thấp hơn số ấy được) thực hành nhạc cụ ở mức tối thiểu trên lớp, thiết nghĩ Hội Đồng Bộ Môn Âm nhạc củng nên có các định hướng hợp lý từng bước nâng cao tay nghề của GV âm nhạc trong tỉnh. Nhưng để khắc phục tình trạng này trong đào tạo, các bên liên quan nên chăng ngồi lại tìm ra một giải pháp tốt nhất trong việc sắp xếp lịch học đúng với đặc thù bộ môn trên tinh thần hướng đến cái chung : chất lượng của giáo viên khi ra trường. Hiện nay với yêu cầu mức chuẩn về thực hành nhạc cụ ở bậc cao đẳng sư phạm âm nhạc, đội ngủ giáo viên âm nhạc của trường Đại học An Giang tuy còn non trẻ nhưng nếu được sự hổ trợ của các thầy cô của Đại Học Sư Phạm TP.HCM thiết nghĩ có thể đãm đương được việc giảng dạy các môn nhạc cụ. Bước đầu sẽ có những khó khăn nhất định, nhưng cái lợi là sinh viên được nhiều thời gian rèn luyện, chắc chắc là kỷ năng sẽ được nâng lên rất nhiều. Để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, trước tiên cần nâng cao chất lượng đào tạo của lực lượng GV. Vì lợi ích chung của sinh viên, học sinh mong rằng các bên liên quan trong đào tạo có một giải pháp hợp lý nhất để ngày càng nâng cao chất lượng giáo viên của tỉnh nhà.

Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2008

Trắc nghiệm và đôi điều ưu tư.

Mấy năm trở lại đây,việc tổ chức kiểm tra học kỳ bằng hình thức trắc nghiệm đã và đang được áp dụng rộng rãi trong cả nước. Nhất là trong năm học 2007-2008, đề kiểm tra học kỳ của Sở giáo dục An giang ( Khối 9 ) có đến sáu môn hoàn toàn trắc nghiệm, những môn còn lại vừa trắc nghiệm kết hợp tự luận. Đối với đề của cấp phòng Giáo dục ( cho các khối 6,7,8 ) không có môn hoàn toàn trắc nghiệm, nhưng mỗi môn kiểm tra củng đều có hai phần kết hợp trắc nghiệm và tự luận với quy định cụ thể giờ giấc cho từng phần. Việc áp dụng trắc nghiệm vào các bài kiểm tra là một trong những nội dung đổi mới phương pháp giáo dục mà Bộ Giáo Dục và Đào Tạo phát động trong mấy năm qua. So với cách kiểm tra tự luận như trước đây, phương pháp kiểm tra trắc nghiệm có nhiều ưu điểm hơn. Cùng một thời lượng nhưng sử dụng phương pháp trắc nghiệm có thể kiểm tra một lượng kiến thức rộng hơn gấp nhiều lần, giúp các thầy cô giáo hạn chế được việc học " tủ " của học sinh ....Nói chung chúng ta không thể phủ nhận những mặt tốt mà nó mang lại trong giáo dục. Tuy nhiên, với tư cách là một giáo viên dạy THCS bản thân tôi có những ưu tư nhất định
Đối với học sinh THPT, các em đã có một nền tản kiến thức các môn học từ cấp THTHCS, hơn nữa các em đã đủ lớn để có nhận thức tính đúng sai của vấn đề, đủ tinh tế để nhận ra những khác biệt nhỏ trong các câu trả lời, vì vậy, việc áp dụng hình thức trắc nghiêm trong kiểm tra là hoàn toàn hợp lý. Nhưng đối với học sinh bậc THTHCS thì việc áp dụng thi bằng hình thức trắc nghiệm đặc ra một số vấn đề mà về lâu dài đáng để chúng ta suy ngẫm.
Có một thực tế là hiện nay học sinh cấp THCS rất ít đọc sách, quan sát một số thư viện của các trường THCS trong địa bàn tỉnh An Giang, hầu như các em học sinh vào chỉ để đọc truyện hình. Nhìn chung văn hoá đọc trong học sinh giảm đi nhiều do những yếu tố chủ quan củng như khách quan, từ đó dẫn đến khả năng diễn đạt về một vấn đề của các em bị hạn chế rất nhiều. Ở mỗi đợt chấm bài kiểm tra có phần tự luận, số lượng bài kiểm tra viết những câu què cụt, vô nghĩa ở khối lớp 6 chiếm đến 30-40% trên tổng số bài chấm, tỷ lệ này giảm dần theo mỗi cấp lớp, nhưng đến cấp lớp 9 vẫn không dưới 15-20%. Thiếu đọc nên vốn từ của các em không phong phú điều này dẫn đến việc các em lúng túng trong biểu đạt về một vấn đề sao cho mạch lạc rỏ ràng.
Đối với độ tuổi THTHCS, các em bắt đầu tiếp nhận các kiến thức văn hoá xã hội thông qua các môn học trong nhà trường, qua đó hình thành sự nhận biết với thế giới xung quanh. Từ chỗ nhận biết các sự vật sự việc, tiến tới chỗ có thể diễn tả lại chính xác các sư vật, sự việc trong mối quan hệ của chúng với cuộc sống. Chính sự rèn luyện đó dần dần hình thành trong các em tư duy nhận định về cuộc sống xã hội và thông qua các bài tự luận các em tập diễn đạt, trình bày những nhận định,ý kiến của bản thân và giải quyết các yêu cầu đặt ra. Đây chính là một trong những đòi hỏi của cuộc sống khi các em ra đời lao động, công tác. Thầy Thịnh, giáo viên dạy sử lâu năm của trường THCS Cái Dầu thốt lên sau khi kiểm tra học kỳ 2 năm học 2007-2008 :" tình hình này thì ta có thể tìm vô số các nhà thống kê sử học, còn lý luận phê bình thì chắc chịu thua". Trắc nghiệm có thể kiểm tra một mãng kiến thức lớn, bao quát, nhưng đó là những kiến thức rời rạc và trãi rộng, nên nó chỉ nhằm kiểm tra kiến thức đã học thông qua sự nhận biết đúng sai, chứ không kích thích sự nghĩ suy về một sự vật sự việc cụ thể có mạch lạc và logic. Thầy Kỉnh- hiệu trưởng trường THCS Cái Dầu cho biết :"Ở một chừng mực nào đó, khi áp dụng hình thức kiểm tra trắc nghiệm đại trà các môn học, phần nào ảnh hưởng đến việc rèn luyện kỹ năng viết của các em". Việc kiểm tra phần lớn là trắc nghiệm sẽ tạo cho các em tâm lý không cần thiết phải rèn luyện kỹ năng tự luận, vì hầu như cũng sẽ không áp dụng hoặc áp dụng rất ít trong thi cử ( Ở độ tuổi của các em, phần đông học chủ yếu để vượt qua các kỳ thi). Chính tâm lý ấy khiến học sinh không thiết tha với việc rèn luyện các kỹ năng diễn đạt, trình bày. Ở hai quy trình kiểm tra tự luận và trắc nghiệm có sự khác biệt nhất định. Trong khi ở phương pháp tự luận thì kiểm tra là việc cho học sinh tái hiện chính xác những gì đã được học, có thể có thêm những nhận định, suy nghĩ bằng sự diễn đạt ngôn từ trong một sự liên kết nhất quán. Còn ở phương pháp trắc nghiệm thì kiểm tra là cho học sinh xác nhận độ chuẩn của kiến thức trên diện rộng thông qua việc chọn phương án đúng nhất. Như vậy đối với thi trắc nghiệm, học sinh chỉ cần xác định vấn đề đó đúng hay sai, còn việc diễn tả vấn đề ấy không cần thiết đối với yêu cầu kiểm tra. Ở một độ tuổi nào đó, khi mà từ nhận thức cho đến kỹ năng các em đã được trang bị đủ để có thể phán đoán, nhận xét sự việc sự vật, thì việc kiểm tra bằng hình thức trắc nghiệm sẽ giúp các em mở rộng các mối quan tâm trong học tập, phát huy được tính ưu việt của phương pháp. Đối với học sinh THCS, nhất là ở hai cấp lớp 6-7 ( theo quy của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, trẻ 6 tuổi phải vào lớp một, trên thực tế ở độ tuổi này các em phát triển thể chất không đồng đều giữa vùng nông thôn và thành thị, giữa gia đình giàu và nghèo do vậy có những học sinh khi vào lớp một còn rất nhỏ, đến lớp 6 các em vẫn là "ốc tiêu" trong lớp, mỗi lớp có khoảng mười mấy em trên số khoảng ba mươi lăm ), các em chưa đủ nhận thức về các vấn đề mang tính khái quát, xa vời. Tiếp xúc với một số học sinh lớp sáu, lớp bảy đa số các em cho rằng thi trắc nghiệm " dể ợt ", học sơ sơ là làm được. Cô Huỳnh Đào - Hiệu trưởng trường THCS Bình Long (Châu Phú - An Giang) cho biết :" Kiểm tra trắc nghiệm đối với học sinh lớp sáu, lớp bảy như là một sự đánh đố với các em, rất nhiều học sinh khá bị lúng túng trước việc chọn câu đúng khi mà đề kiểm tra có độ nhiễu cao ( tưởng chừng như câu nào cũng đúng), trong khi đó một số học sinh yếu lại "ăn may" khi nhắm bừa chọn bất kỳ ".Ở độ tuổi này các em chưa đủ sự tinh tế để nhận ra những sự khác biệt nhỏ. Ta có thể hình dung thế này, sau khi các em đã học về con mèo nhà em, nếu bảo các em mô tả lại những gì đã được biết về con mèo có lẽ sẽ dễ dàng hơn việc bắt các em phân biệt đâu là con mèo nhà em trong số những con mèo hầu như gần giống nhau về màu sắc. Khi các em mô tả, là quá trình các em rèn luyện kỹ năng tái hiện chính xác những kiến thức đã được học, qua đó các em có thể nắm được những tính chất, những đặc trưng của từng sự việc sự vật,hình thành một kiến thức nền nhất định, đến lúc này thì việc phân biệt cái đúng giữa những cái gần đúng sẽ dễ dàng hơn.
Trắc nghiệm là một hình thức kiểm tra có nhiều ưu điểm, tuy nhiên không phải hoàn toàn phù hợp với tất cả các cấp lớp nhất là cấp THTHCS. Chúng ta xây dựng một nền học vấn phổ thông toàn diện, có lẽ không ai trong chúng ta mong muốn đào tạo một lớp người giỏi kỹ thuật nhưng lại không thể tình bày mạch lạc một vần đề, một sự việc. Trên thực tế đã có những kỹ sư ra trường với loại khá nhưng viết một luận án thì rất chi là kinh hoàng về mặt câu cú, ngữ pháp. Ở mỗi một thời kỳ phát triển tâm sinh lý của học sinh, chúng ta áp dụng những phương pháp dạy học, đánh giá phù hợp sẽ phát huy được tác dục của giáo dục, ngược lại, ở một góc độ nào đó nó sẽ tạo ra sự khập khiển trong chiến lược phát triển con người. Nên chăng có những nghiên cứu sâu và rộng để có những định hướng phù hợp trong việc đánh giá kiểm tra cho từng lứa tuổi, từng cấp lớp học, làm sao phát huy hết tính ưu việt của các phương pháp, vừa đảm bảo được mục tiêu chiến lược giáo dục. Đối với học sinh Tiểu học và hai cấp lớp sáu bảy của THCS, Các em còn khá nhỏ, không nên áp dụng hình thức trắc nghiệm nhằm để các em rèn luyện khả năng tự luận. Lớp tám và lớp chín là hai cấp lớp bắt đầu đưa dần hình thức trắc nghiệm vào kiểm tra đánh giá, dần dần cho các em làm quen hình thức đánh giá mới để lên cấp THPT các em đã có một nền tảng kiến thức cơ sở củng như phương pháp học tập phù hợp với cách đánh giá kiểm tra theo phương pháp trắc nghiệm.
Đây chỉ là những ưu tư và ý kiến cá nhân của một giáo viên THCS nhằm đóng góp cho sự phát triển của nghành giáo dục nước nhà, rất mong sự quan tâm của quý thầy cô giáo vì tương lai con em chúng ta.