Đờn Ca Tài Tử là hoạt động văn hóa
dân gian đặc trưng của vùng đất sông nước miệt vườn, trở thành cốt cách của
người Nam Bộ xưa nay. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, hình thức sinh hoạt
văn hóa dân gian này vẫn tồn tại và phát triển, gắn bó mật
thiết trong đời sống người dân Nam Bộ.
Ban Đờn ca Tài tử |
Năm học 2014 – 2015 Sở Giáo Dục và Đào Tạo An Giang có
định hướng đưa Đờn ca tài tử vào giới thiệu trong chương trình Âm nhạc cấp THCS
(2 tiết học cho một cấp lớp). Tuy nhiên, hiện nay tư liệu về Đờn ca tài tử
không nhiều, chủ yếu là những bài viết, nghiên cứu mang tính giới thiệu là
chính chứ chưa có một tổng kết chính thức nhằm giúp cho người tìm hiểu về Đờn
ca tài tử có một cái nhìn bao quát và có hệ thống về loại hình
nghệ thuật này. Bên cạnh, Bộ Giáo Dục Đào Tạo vẫn chưa ban hành một giáo trình
cụ thể cho việc giới thiệu nghệ thuật Đờn ca tài tử trong nhà trường phổ thông,
vì vậy gây không ít khó khăn cho giáo viên Âm nhạc trong việc giới thiệu loại
hình nghệ thuật này đến học sinh.
Tài liệu này là tổng hợp bài viết của các tác giả Trà Mi, Bảo Ngọc, Phạm Ngà đăng trên trang blog Hương Phù Sa (có đường link dẫn nguồn ở cuối bài) nhằm cung cấp cho giáo viên giảng dạy bộ môn
Âm nhạc cũng như các bạn muốn tìm hiểu nghệ thuật Đờn ca tài tử có được những tư liệu mang tính khát quát về nghệ thuật này để từ đó có thể cung cấp cho học sinh THCS những kiến thức cơ bản
mang tính hệ thống của loại hình âm nhạc này. Rất mong các tác giả lượng thứ cho việc dẫn bài viết.
I. Các giai đoạn phát triển Đờn ca Tài tử
1. Giai đoạn manh nha từ âm
nhạc dân gian
Nam Bộ xưa kia vốn là vùng đất hoang sơ. Vào thế kỷ XIII chỉ có một nhóm nhỏ những người Khơ-me sinh sống.
Phải đến thế kỷ XVII Chúa Nguyễn thi hành chính sách di
dân, người Việt mới đến sinh cơ lập nghiệp trên mảnh đất “rừng thiêng
nước độc” này. Các lưu dân miền Trung đã mang theo câu hò điệu lý của quê hương
trên bước đường khai phá Nam Bộ. Họ cũng đem theo loại hình Nhạc lễ, nhằm phục
vụ nhu cầu cúng bái. Vào thế kỷ XVIII, Nhạc lễ được biểu
diễn trong các hội cúng đình hoặc chơi trong các đám tang. Dàn nhạc gồm các
nhạc cụ bộ vĩ, bộ gõ và bộ hơi, chia hai phe Văn, Võ. Phe Văn còn gọi là bộ văn
gồm những bài bản được diễn tấu bằng các nhạc cụ dây kéo (như đờn cò, cò lòn,
gáo). Phe Võ chủ yếu là những nhạc cụ gõ như đôi trống nhạc, trống cơm, trống
bồng, mõ phết, đấu đường, tum, lồ… Dần về sau, phe Văn tách
ra, bỏ bớt đi nhạc cụ bộ gõ và bộ hơi, đến lúc chỉ còn có đờn cò và song lang.
Những ban nhạc này được gọi là những nhóm đờn cây. Giải thích về việc chia tách
trong dàn nhạc lễ, nhạc sĩ Hoàng Việt Khanh cho rằng:
“Do nhu cầu phục vụ cho các tang lễ về khuya, nhạc
lễ cần phải chơi với âm lượng nhỏ theo yêu cầu của gia chủ. Từ đó, các ban nhạc
lễ được tổ chức một cách gọn nhẹ hơn và bắt đầu dùng song lang thay cho trống
nhạc để giữ tiết tấu, cũng như bỏ bớt các nhạc cụ dây kéo vĩ để chỉ còn lại có
đờn cò”.
Tổ chức hợp với không gian tang lễ khi về khuya là lý do trực tiếp, song việc đơn giản hóa
nhạc cụ có thể còn nhằm mục đích sâu xa hơn là thỏa mãn nhu
cầu chơi nhạc của người dân Nam Bộ vốn mê ca hát, văn nghệ. Thay vì trước đây
chỉ có hò, lý làm âm nhạc giải trí, thay vì chỉ được thưởng thức thì người Nam
Bộ nay còn được thú chơi nhạc. Phong trào đờn cây phổ biến rộng rãi. Bên cạnh,
việc đáp ứng nhu cầu ca hát trong các buổi sinh hoạt hòa
đàn, trao đổi nghệ thuật, các nghệ nhân bắt đầu đặt lời ca theo giai điệu có
sẵn. Từ đó, tạo nên một sự khác biệt giữa các buổi sinh hoạt của các nhóm đàn
cây và nhạc lễ là sự có mặt của người hát. Ngoài việc hòa
đàn với nhau, ban nhạc tài tử còn tham gia việc đệm đàn cho ca hát. Do vậy,
nhóm đờn cây bắt đầu được gọi là nhóm Tài tử, phân biệt rõ rệt với nhạc lễ và
hát bội là hai món ăn tinh thần thịnh hành lúc bấy giờ. Các nhóm Tài tử bắt đầu
mở rộng không gian diễn xướng, họ không chơi ở các đám ma
như các nhóm nhạc lễ mà phục vụ trong các dịp lễ tết, hay các đám giỗ lớn hoặc
sinh hoạt, giao lưu giữa các nhóm
Sự ra đời của phong trào đờn cây tuy chưa chính thức
làm nên thể loại Đờn ca Tài tử nhưng là yếu tố quan trọng, là môi trường thuận
lợi để tiếp nhận và phát triển các yếu tố khác hợp thành Đờn ca Tài tử.
2.Giai đoạn hình thành gắn
với sự truyền bá âm nhạc vùng Ngũ Quảng
Tiếp theo tiến trình hình thành Đờn ca Tài tử là sự
truyền bá nhạc thính phòng miền Trung vào đất Nam Bộ. Về sự hình thành Đờn ca
Tài tử, GS.TS Trần Văn Khê đưa ra nhận định:
Theo các bậc thầy trong nghề, Đờn ca Tài tử hình thành
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhờ
các nhạc sĩ, nhạc quan của triều Nguyễn theo phong trào Cần Vương vào Nam đem
theo truyền thống Ca Huế. Trên đường đi họ dừng chân ở Quảng Bình, Quảng Trị,
Quảng Nam, từ đó tiếng đờn giọng ca xứ Huế mang thêm chút hương vị xứ Quảng…
Nhận định trên đặt ra một số vấn đề như sau:
Thời điểm hình thành Đờn ca Tài tử là không xác định,
chỉ biết khoảng thời gian vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (phong trào Cần Vương bắt đầu năm 1885, kết thúc năm
1888).
Ca Huế là một trong những nguồn gốc hình thành Đờn ca
Tài tử Nam Bộ. Ca Huế là một loại quan nhạc, tức là nhạc để chơi trong nhà
quyền quý, hay trong cung phủ. Dần dần lối nhạc này được ưa thích và truyền bá
trong dân gian. Một số bài bản của Ca Huế lấy từ Nhã nhạc cung đình. Có thể
nói, âm nhạc đất Thần Kinh đã liên quan mật thiết đến Đờn ca Tài tử.
Ca Huế vào đất Quảng, tiếp thu lối đàn Quảng rồi vào
đến Nam Bộ lại tiếp tục biến đổi. Một số điển hình cho sự phát triển này như:
điệu Lưu Thủy Thục Giang qua giai đoạn Lưu Thủy
Quảng mới trở thành Lưu Thủy Đoản Miền Nam, Phú Lục Huế
chuyển hơi thành Phú Lục Quảng rồi khi vào Nam, bài Phú Lục Chấn chỉ còn giữ
lại đôi chút của Phú Lục Huế. Riêng bản Nam Ai Nam và Nam Ai Huế thì tuy trùng tên
nhưng nét nhạc đã khác xa cùng nhiều sự biến đổi khác.
Có thể tóm tắt quá trình hình thành Đờn ca Tài tử như
sau: Ca Huế đi qua đất Quảng, cải biến theo lối đàn Quảng. Theo bước chân vào
Nam, gặp phong trào văn nghệ dân gian là hò, lý, đặc biệt là phong trào đờn cây
sẵn có, hình thành Đờn ca Tài tử với đầy đủ tính chất, đặc trưng.
- Các nhạc sư, nhạc sĩ
Đờn ca Tài tử:
Có công đầu trong việc truyền bá Ca Huế là các nhạc
quan cung đình có tên tuổi như Nguyễn Liên Phong và con trai là Nguyễn Tòng Bá
(còn gọi là Tư Bá), dạy đờn kìm, đờn tranh, đờn tỳ bà khắp lục tỉnh. Ông Phạm
Đăng Đàn về ở Vĩnh Long dạy đờn độc huyền. Ông cũng đồng thời đặt lời cho các
bản đờn, có bài mở đầu bằng câu: “Nên tôi danh sĩ Đăng Đàn…”. Ông Trần
Quang Thọ, nhạc công cung đình vào Nam lập nghiệp, khai sinh dòng tộc
có bề dày truyền thống Đờn ca Tài tử. Ông Trần Quang Diệm (1853 – 1927) là bậc
thầy đờn tỳ bà.
Thế hệ nhạc quan sau phong trào Cần Vương vào Nam dạy đờn
phải kể đến nhạc sư Nguyễn Quang Đại (tục gọi là Ba Đợi). Trước tới nay chưa có
công trình nào nghiên cứu đầy đủ về thân thế và sự nghiệp của nhạc sư, chỉ biết
ông sống cùng thời với ông Trần Quang Diệm. Ông đã đào tạo nhiều nghệ nhân tài
danh cho giới Nhạc lễ và Đờn ca Tài tử ở khắp các tỉnh miền Đông, ở Long An,
Bến Tre và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khác. Tại xóm Đakao, xóm Hàng
Dừa (trước cổng Lăng Ông Bà Chiểu, nay thuộc quận Bình Thạnh), ông đào tạo các
nhạc sĩ lừng danh lúc bấy giờ là Sáu Thới và Tám Hạnh. Ông Sáu Thới tiếp tục
truyền dạy cho các học trò của mình là Giáo Thinh (tức Nguyễn Văn Thinh, từng
là trưởng khoa Âm nhạc dân tộc trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn), hay
như Tư Nghị, Năm Cần… Tại Cần Đước, Cần Giuộc (Long An). Học trò của ông có thể
kể đến nhạc Láo, nhạc Thời, Hai Tò Le, Sáu Thoàn, Chín Chiêu, Năm Tịnh, Sáu
Giỏi, Bảy Lung, Xã Năm, Hai Bầu, Năm Khiết, Năm Xem, Ba Đống, Năm Quýnh, Mười Hai
Dương. Tại Đồng Nai, có các môn đệ lừng danh giới nhạc lễ như Văn Kiên (kèn),
Võ Phải (trống). Ở Sông Bé (nay là Bình Dương) có Sư Dung (dạy đờn tỳ bà cho
Giáo Thinh), Út Lăng, Út Búng. Ông là thầy của những bậc thầy đờn ca Tài tử Nam
Bộ.
Nhạc sư Ba Đợi là người đã hệ thống 20 bài bản tổ,
sáng tác nhiều bài bản khác như bộ Ngũ Châu miền Đông, sáng tác Bát Ngự nghinh
giá vua Thành Thái lúc Người vào Nam. Ông mất tại Sài Gòn, đến nay
thì mồ mả xiêu lạc không còn dấu tích. Sau người dân xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước,
Long An, nơi ông từng dừng chân đã rước linh vị ông về thờ phụng, hằng năm đều
tổ chức lễ giỗ long trọng. Có người xem đó là ngày Giỗ tổ Đờn ca Tài tử. Ông
được tôn vinh là Đức nghệ nhân tiền phong nhạc Lễ, nhạc Tài tử.
Thành phần tiếp thu và truyền dạy nhạc ban đầu không
phải chỉ có các trí thức gốc miền Trung mà còn có sự đóng góp rất sớm của trí
thức nông thôn Nam Bộ, đó là trường hợp Phan Hiển Đạo. Phan Hiển Đạo (1830 –
1872) là người làng Vĩnh Kim Đông (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền
Giang), dưới triều vua Tự Đức đã đậu tiến sĩ. Trong thời gian lưu học ở Huế,
ông đã tiếp thu âm nhạc nơi đây, am tường nhiều nhạc cụ dân tộc. Sau khi về làm
quan tại quê nhà, ông đã truyền dạy cho nhiều học trò, đặc biệt trong cách chơi
đờn cò và thổi sáo. Theo một số tư liệu, trong số những người từng thọ học thầy
Phan Hiển Đạo có ông Lê Văn Huệ và Nguyễn Tri Túc, hai ông đã tiếp tục truyền
dạy cho thế hệ con cháu mình.
Nếu miền Đông Nam Bộ có nhạc sư Nguyễn Quang Đại làm
thủ lĩnh thì giới Tài tử Tây Nam Bộ lại chịu ảnh hưởng của nhạc sư Lê Tài Khị
(1870 – 1948), tục gọi là ông Hai Khị, hay Nhạc Khị, vì ông chuyên về Nhạc lễ.
Ông sinh trưởng trong gia đình nghệ thuật ở Bạc Liêu, cha là ông Phó tổng Lê Văn
An, tức ông Bầu An có gánh hát bội nổi tiếng miền Tây. Ngoài chuyên Nhạc lễ,
ông cũng chơi đờn theo phong cách Tài tử. Theo cụ Vương Hồng Sển trong Hồi ký 50 năm mê hát, người đương thời
biết đến Nhạc Khị như một tài năng đặc biệt khi một mình chơi
trọn bộ cổ nhạc gồm nhiều nhạc cụ với tiết tấu nhịp nhàng như trong một dàn
nhạc đông người. Công lao to lớn của ông đối với cổ nhạc miền Nam là đã đào tạo
nên những nhạc sư tài danh như Bảy Kiên, Hai Húa, Ba Lất, Tám Bằng và hai nhạc
sĩ sáng tác những bài bản mới như nhạc sĩ Trần Tấn Trung, tức Mộng Vân, và nhạc
sĩ Cao Văn Lầu, cha đẻ của bản Dạ cổ hoài lang. Ông được tôn vinh là Hậu
tổ Tài tử - Cải lương.
Trưởng nhóm Tài tử miền Tây là ông Trần Quang Quờn.
Ông làm Kinh Lịch ở tòa án Vĩnh Long, nên tục gọi là Thầy
Ký Quờn, hay Kinh Lịch Quờn. Ngoài việc ông rất thông thạo đờn Tài tử, ông còn
đặt lời ca rất đúng thanh âm, dễ ăn với chữ đờn, cho phù hợp với ngôn ngữ Nam
Bộ. Ông chế tạo ra nhiều nhạc cụ mới để thay cho các nhạc cụ cổ truyền mà ông
đặt tên là Tiểu ba tiêu, Đại ba tiêu, Trùng đồng, Song thương. Hiện nay các
nhạc cụ này không còn tồn tại, qua mô tả của những người từng quen biết ông thì
các loại nhạc cụ này dựa vào nhạc cụ cổ truyền, phức tạp hơn. Việc sáng tạo của
ông tuy không có tính hiệu quả trong ứng dụng thực tiễn, nhưng đã cho thấy tinh
thần cách tân, cải biến cao.
Trên là những bậc thầy có công gầy dựng Đờn ca Tài tử
buổi đầu, gồm các nhạc quan triều đình từ miền Trung vào và các trí thức Nam Bộ
ra học tập tại Huế. Trong đó có nhạc sư Nguyễn Quang Đại và Lê Tài Khị là hai
người đứng đầu giới tài tử miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Các thế hệ sau tiếp
bước người đi trước, không ngừng cải biến, hoàn thiện Đờn ca Tài tử về bài bản,
cũng như kỹ thuật biểu diễn. Tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) là một trong
những cái nôi của Đờn ca Tài tử, nơi khai sinh hai dòng họ Trần và Nguyễn nổi
tiếng. Người đầu tiên của dòng họ Trần ở làng Vĩnh Kim là nhạc công Trần Quang
Thọ như đã nói ở trên. Thế hệ tiếp theo là Trần Quang Diệm, nổi tiếng với ngón
đờn tỳ bà. Con ông là Trần Văn Chiều (tự Bảy Triều). Nhạc sĩ Bảy Triều biết
chơi nhiều loại nhạc cụ. Với đờn độc huyền, ông bắt chước đào hát bội “thán”.
Với đờn kìm, ông đã sáng chế ra “dây Tố Lan” mà các nghệ sĩ tài tử miền Nam còn
dùng để đờn hai bản Văn Thiên Tường và Tứ Đại Oán.
Ở làng Đông Hòa có ông Nguyễn Tri
Túc chuyên về đờn kìm và đờn cò. Ông từng học đờn với nhạc sư Ba Đợi. Ông ít
khi hòa đờn mà chủ yếu đào tạo cho các con trai. Các ông
Nguyễn Tri Lạc, Nguyễn Tri Khương, Nguyễn Tri Ân đều là những tay chơi đàn điêu
luyện. Ông Nguyễn Tri Khương còn sáng tác cho sân khấu Cải lương sau này vở Giọt
lệ chung tình.
Tại làng Cái Thia tỉnh Mỹ Tho còn có một nhạc sĩ tên
Nguyễn Tống Triều (tức Tư Triều) góp phần quan trọng vào sự phát triển của Đờn
ca Tài tử. Ông đờn kìm xuất sắc, ông Diệp Văn Cương (thân phụ của ông Diệp Văn
Kỳ, chủ nhiệm tờ báo Thần Chung nổi tiếng thời bấy giờ) đã ngợi khen: “Sau
khi nghe tiếng đờn kìm của Tư Triều và tiếng đờn tỳ của ông Năm Diệm rồi thì
tôi không còn muốn nghe bất kỳ tiếng đờn của ai khác”.
Ở đây còn cho thấy sự giao lưu hòa đờn giữa các nghệ nhân trong địa phương với
nhau cùng sự thưởng thức tri âm đồng điệu. Về sau, cụ Vương Hồng Sển, một người
cũng rất sành về Đờn ca Tài tử đã đánh giá rằng tiếng đờn của Bảy Triều trội
hơn so với Tư Triều. Nhạc sĩ Tư Triều qui tụ một nhóm đờn Tài tử rất được hâm
mộ với nhiều nghệ sĩ tài hoa như Chín Quán đờn độc huyền, Mười Lý thổi tiêu,
ông Bảy Vô đờn cò, với giọng hát của cô Hai Nhiễu (con ông Tư Triều) và cô Ba
Đắc.
- Nhóm tài tử miền Đông và nhóm tài tử miền
Tây:
Trong quá trình phát triển của mình, phong trào Đờn ca
Tài tử có sự xuất hiện hai nhóm nhạc ở hai miền của Nam Bộ, cùng tranh tài,
đồng thời học hỏi lẫn nhau. Nhóm nhạc miền Đông do nhạc sư Ba Đợi chủ xướng.
Nhóm nhạc miền Tây do Nhạc Khị đứng đầu. Hai nhóm cùng thống nhất về bài bản
nhạc tài tử gồm 20 bài bản tổ, nhưng mỗi bên cũng có sáng tác những bài bản
riêng mình (bộ Ngũ Châu miền Đông và bộ Tứ Bửu miền Tây). Bộ Ngũ Châu, hay “năm
hạt châu của miền Đông” gồm các bài: Kim tiền bản, Ngự giá, Hồ lan, Vạn
liên, Song phi hồ điệp. Bộ Tứ Bửu, hàm ý là bốn báu vật của quê nhà, gồm
các bản: Minh Hoàng thưởng nguyệt, Ngự giá đăng lâu, Phò mã giao duyên, Ái
tử kê. Bài bản Tài tử đã phong phú lên rất nhiều nhờ vào sự tranh đua sáng
tác của hai nhóm nhạc này. Theo TS. Mai Mỹ Duyên, sự khác nhau của hai nhóm nằm
ở tốc độ chơi nhạc. Nhóm nhạc miền Đông thường chơi tiết tấu nhanh, nhịp khúc
so với miền Tây. Cách diễn tấu miền Đông gần với Ca Huế hơn. Càng về phương Nam thì các tài
tử miền Tây có phần phóng khoáng hơn về tiết tấu. Cũng theo TS. Mai Mỹ Duyên
điều kiện địa lý
tự nhiên là yếu tố tạo ra sự khác nhau trong cùng một loại hình nghệ thuật ở
mỗi vùng miền. Miền Đông, với địa hình đồi dốc, sông ngòi chảy mạnh, do vậy mà
nhịp sống của cư dân nơi đây có tính chất nhanh, gấp gáp. Trong khi đó, miền
Tây Nam Bộ nhiều sông ngòi, địa hình bằng phẳng, mùa nông nhàn kéo dài, con
người sống êm đềm, nhàn nhã, ít gấp gáp hơn. Nhịp sinh hoạt cũng
ảnh hưởng tới nhịp điệu âm nhạc, nghệ thuật. Hai nhóm Tài tử này đã
hình thành hai khuynh hướng tồn tại độc lập, làm phong phú đời sống văn nghệ
nói chung cũng như loại hình Đờn ca Tài tử nói riêng.
Từ khi âm nhạc miền Trung du nhập vào Nam Bộ đã
có những biến đổi to lớn, trên phương diện biên chế dàn nhạc và tính chất âm
nhạc. Về dàn nhạc, từ chỗ gồm nhiều cây đờn đến chỗ chỉ cần một cây đờn cũng có
thể chơi được. Tính chất âm nhạc (khí nhạc) thay đổi nhiều, mục đích nhằm phù
hợp với giọng hát, thanh điệu và ngôn ngữ của người Nam Bộ. Điệu nhạc càng tiến
về Nam càng buồn, da diết. Phải chăng là do tâm thức người Việt ta, những người
rời quê hương, trở thành dân tứ chiếng. Vào vùng đất mới, họ phải đối mặt với
biết bao khó khăn, gian khổ. Hay là do những người thầy đầu tiên của họ mang
trong lòng tâm sự của những người yêu nước, phò vua giúp nước mà rốt cuộc bị bỏ
rơi trong phong trào Cần Vương?
Quá trình định hình tính chất Đờn ca Tài tử là quá
trình sáng tạo của tập thể, trải qua nhiều thế hệ, làm phong phú bài bản, nhạc
cụ.
3. Từ Đờn ca Tài tử thành
Ca ra bộ rồi Cải lương
Năm 1910, ban nhạc Tài tử do ông Nguyễn Tống Triều
đứng đầu được mời sang Pháp biểu diễn trong Hội chợ các nước thuộc địa, đã tiếp
thu trong một chừng mực nào đó hình thức biểu diễn phương Tây. Hoạt động của
nhóm dần lan rộng ra khắp vùng Rạch Gầm, được các đại điền chủ lúc bấy giờ mời
biểu diễn. Ông Nguyễn Tống Triều cũng được giới thiệu với nhà chí sĩ Trần Chánh
Chiếu ở nhà hàng và khách sạn Minh Tân, lúc này ở ngang ga xe lửa Sài Gòn, Mỹ
Tho. Đến năm 1911, với ý định đưa Đờn ca Tài tử ra trước công chúng, ông đã
thương lượng với chủ nhà hàng Minh Tân, để ban Tài tử giúp vui cho thực khách
đến nghe. Đờn ca Tài tử thay đổi về tính chất, trước ở dạng thính phòng, do một
số ít người chơi trong một không gian nhất định. Đến lúc này manh nha yếu tố
trình diễn, phục vụ cho số lượng khán thính giả đông đảo. Trong cuốn Hồi ký 50 năm mê hát, cụ Vương Hồng Sển nhắc lại
tìm hiểu của cụ Trần Văn Khải:
Cái ý kiến đờn ca trên sân khấu đã phát sinh từ đó.
Thầy Hộ, chủ rạp hát bóng Casino, ở sau chợ Mỹ Tho, muốn cho rạp hát mình được
đông khách, bèn mời ban Tài tử Tư Triều đến trình diễn mỗi tối thứ bảy và thứ
tư trên sân khấu, được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt.
Qua mô tả lại, các Tài tử khi trình diễn thì mặc quốc
phục nghiêm trang ngồi trên một bộ ván ngựa, chưa có bài trí sân khấu. Cô Ba
Đắc ca bài Tứ Đại Oán “Bùi Kiệm Nguyệt Nga” với một giọng gần như có đối
đáp, nhưng không ra bộ. Tuy chỉ có sự thay đổi nhỏ trong hình thức nhưng Đờn ca
Tài tử lúc này được ủng hộ, là một sự mới lạ đối với công chúng. Ban Tài tử vào
năm 1915 được mời biểu diễn cho nhà hàng Cửu Long Giang, Sài Gòn. Tiếng đờn
giọng ca của những nghệ nhân tài danh được biết đến ngày càng rộng rãi. Năm
1915 cũng đánh dấu một thay đổi lớn, Đờn ca Tài tử lại phát sinh một hình thức
trình diễn mới, hình thức Ca ra bộ. Ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long (tên thật là
Tống Hữu Định) đã tiếp thu hình thức trình diễn cùng lối ca như đã kể trên,
nhưng cho người ca đứng trên bộ ván và có ra bộ. Ông cũng chỉnh sửa lời ca bài
Tứ Đại Oán “Bùi Kiệm Nguyệt Nga” có câu thoại dẫn dắt trước khi vào nhạc
và chia lời ca theo từng nhân vật. Phong trào ca ra bộ bắt đầu phát triển, hình
thành những nhóm nhỏ, các tổ chức có người cầm đầu, các diễn viên sống bằng
nghề. Ca ra bộ thành loại hình nghệ thuật chuyên nghiệp, khác với Đờn ca Tài
tử. Từ Đờn ca Tài tử phát sinh hình thức Ca ra bộ, làm tiền đề khai sinh một
loại hình sân khấu của riêng miền Nam Việt Nam - Nghệ thuật sân khấu Cải lương.
Việc cải biến, thay đổi chủ yếu là hình thức diễn xướng xuất phát từ ý thức
sáng tạo của những nghệ sĩ Tài tử. Khi xuất hiện lời ca có đối đáp, Đờn ca Tài
tử đã rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Ca ra bộ làm cho lời ca đó thêm hấp
dẫn. Những cách tân trong Đờn ca Tài tử còn có cơ sở từ sự tiếp thu văn hóa phương Tây của các nghệ sĩ, trí thức Việt Nam.
Những năm 20, 40 của thế kỉ XX, văn hóa
phương Tây thâm nhập sâu rộng vào mọi mặt của xã hội Việt Nam, trong đó có ảnh
hưởng đến văn hóa nghệ thuật. Đờn ca Tài tử cũng có nhiều
thay đổi quan trọng. Đó là sự du nhập của các nhạc cụ, đầu tiên là cây đờn violon,
tiếp sau là đờn guitar vào dàn cổ nhạc. Điều đặc biệt là người Nam Bộ đã chấp
nhận dung nạp các nhạc cụ hiện đại của nước ngoài, không phải dưới dạng nguyên
sơ ban đầu. Các nghệ nhân đã cải biến chúng thành nhạc cụ bản chất Việt, để
chúng nói lên bằng giọng của người Việt, truyền tải cảm xúc của cha ông bao đời.
Sự ra đời của sân khấu Cải lương cũng có cơ sở từ sân khấu phương Tây. Sự phát
triển của sân khấu Cải lương có tác động ảnh hưởng tới sự phát triển Đờn ca Tài
tử. Đờn ca Tài tử trước kia chỉ do những nhạc công “tài tử” biểu diễn, và chỉ
một số ít người thưởng thức. Cải lương đem Đờn ca Tài tử lên sân khấu, làm cho
nó phổ biến đến tai nhiều người từ thành thị đến thôn quê. Cùng lúc đó kỹ thuật
làm đĩa hát cũng xuất hiện. Khoảng thời gian từ 1936 đến 1945, phong trào Đờn
ca Tài tử được các hãng đĩa đá ở Sài Gòn đua nhau ký hợp đồng với các nam nữ
tài tử. Các hãng đĩa lúc bấy giờ có hãng Pathéphono, Béka, Columbia,
Paillard, Asia. Nhờ đó mà những tiếng đờn,
giọng ca xuất sắc được người mộ điệu khắp nơi biết đến. Các nam tài tử lừng
danh ca đĩa có: Năm Nghĩa, Tư Long, Năm Phồi, Hồng Châu, Ba Giáo, Bảy Cao… Các
nữ tài tử ở lục tỉnh có: Cô Năm Cần Thơ, Cô Bảy Vĩnh Long, Cô Năm Sa Đéc, Cô Ba
Bến Tre, Cô Năm Niệm, Cô Tư Sạng… Có thể nói, thời kỳ này
đờn ca Tài tử phát triển mạnh nhất vì đã lan truyền rộng khắp, thu hút thành
một phong trào chơi Đờn ca Tài tử trong mọi giới. Phong trào Đờn ca Tài tử từ
sau 1945 vẫn tồn tại ở các vùng nông thôn, nhưng đến nay chưa có tài liệu nào
đề cập đến.
Đờn ca Tài tử đã có quá trình hình thành và phát triển
trên một trăm năm. So với các loại hình nghệ thuật cổ truyền khác của dân tộc
như Ca trù, Nhã nhạc cung đình Huế thì Đờn ca Tài tử chỉ là một nền âm nhạc trẻ
tuổi. Là hậu bối sinh sau, Đờn ca Tài tử đã thâu góp tinh hoa của những nền âm
nhạc dân tộc trước nó. Nhưng vì được sản sinh trên một vùng đất mới với tính
thích nghi cao và khả năng sáng tạo không ngừng, Đờn ca Tài tử đã hình thành
đặc trưng riêng biệt, không thể hòa lẫn với các thể loại
khác trên đất nước ta, cũng như trên toàn thế giới. Vô số những nghệ sĩ, nghệ
nhân, hữu danh hoặc vô danh của đất nước đã đóng góp vào sự hình thành Đờn ca
Tài tử, không ngừng cải biến sáng tạo. Đờn ca Tài tử bao năm qua luôn là nơi
chuyên chở tâm tư, tình cảm của người dân Nam Bộ, bằng chính thứ ngôn ngữ chân
phương của vùng đất này.
II. Hệ thống Thang âm, Điệu thức trong Đờn ca
Tài tử
1. Thang âm
Nhạc Tài tử Nam Bộ sử dụng thang âm Việt cấu thành từ
hệ thống ngũ cung quãng năm. Tuy nhiên, cao độ của mỗi âm của các bậc trong
nhạc Việt chỉ có tính cách tương đối, âm bậc chuẩn chỉ mang tính quy ước trong
từng điệu thức, hơi nhạc, tùy bài bản và tùy
ở mỗi vùng miền khác nhau. Các kỹ xảo trong diễn tấu (nhấn, rung, vuốt, mổ...)
trên từng bậc của thang âm đã tạo nên hệ thống các hơi nhạc phong phú của âm
nhạc Việt Nam.
Theo TS. Mai Mỹ Duyên nhận xét:
Thang âm là những mối quan hệ mang tính qui luật về
cao độ của các âm bậc trong giai điệu. Phương thức vận hành giai điệu biểu hiện
các mối quan hệ chính - phụ kết nối của các bậc trong thang âm. Trong đó,
phương pháp tô điểm được hiểu như một tổng thể bao gồm các cách rung, nhấn,
vuốt, mổ… trên cây đờn, là sự tô điểm mang tính quy luật của các bậc trong
thang âm.
Tài tử Nam Bộ ra đời và tiếp thu hệ thống thang âm
theo cấu trúc năm âm từ Ca Huế, Nhã nhạc với năm nốt đờn chính: Hò, Xự, Xang,
Xê, Cống. Ngoài ra còn hai nốt đàn Liu, Ú, là âm cao, “nấc trên” của Hò và Xự.
Đây là chất liệu cơ bản để xây dựng điệu thức của người Việt. Phần cấu trúc
giai điệu của bản nhạc phải viết trên âm điệu của năm âm, có điệu thức của Hò,
Xự, Xang, Xê, Cống.
Trước tiên, thang âm cơ bản - sự kế thừa thang âm Đại
Việt lâu đời từ trong lịch sử, đó là thang âm điệu Bắc:
Hò - Xự - Xang - Xê - Cống - Liu
Thang âm này có trong phần lớn bài bản âm nhạc cung
đình và ca nhạc thính phòng của Việt Nam.
Các bài bản thuộc điệu Bắc đều có thang âm ngũ cung
với âm bậc cơ bản là Hò. Các bài điệu Bắc lấy một chữ nhạc trong hệ thống ngũ
cung là chữ khởi đầu Lưu Thủy bắt đầu bằng âm Hò, Phú Lục
bắt đầu bằng âm Xự, Bình Bán bắt đầu bằng âm Xang, Cổ Bản bắt đầu bằng âm Xê,
Xuân Tình bắt đầu bằng âm Cống, Tây Thi bắt đầu bằng âm Liu.
·Thang âm điệu Nam:
Trong thang âm này hai âm bậc Hò
và Xê không thay đổi so với điệu Bắc, các bậc còn lại đều có thay đổi để làm
nên sắc thái riêng của điệu thức miền Trung, trong đó Hò, Xang và Cống dùng kỹ
thuật rung.
2. Điệu thức
Hệ thống bài bản của nhạc Tài tử
được tổ chức theo ba điệu thức Bắc - Nam – Oán được thể hiện trong 20 bản Tổ
như sau:
+6 bản Bắc thuộc hơi Bắc, mang điệu
nhạc vui tươi, đàn nhanh, nhịp lẹ, ngân ít. Cấu trúc một cách thứ tự của năm âm
chính trong hệ thống nhạc ngũ cung là Hò - Xự - Xang - Xê - Cống. Các bản là:
Lưu Thủy Trường, Phú Lục Chấn, Bình Bán Chấn, Xuân Tình
Chấn, Tây Thi Vắn, Cổ bản Vắn và một số bài bản khác.
+3 bản Nam mang 3 âm điệu khác nhau. Bản Nam được đàn thong thả hơn bản Bắc,
ngân vừa, nhịp khi chặt khi thưa, và phải gây ra một cảm tưởng trầm ngâm, bình
thản, nghiêm trang. Các bản Nam
là:
-Nam
Xuân: mang hơi Xuân, chỉ nhấn và rung nhẹ ở chữ Xự - Xang - Xê. Âm trục của hơi
Xuân là Xàng - Xang. Tính chất thể hiện thư thái, nhẹ nhàng, điệu buồn nhưng không
bi, cái buồn man mác có chút lãng mạn, rộn rã hơn như dự báo sự sầu não sắp qua
đi. Trong Cải lương, thường sử dụng thể bản này (8 câu đầu) hơn là bản Nam
Đảo.
-Nam
Ai: mang hơi Ai. Về mặt thang âm, Nam Ai gần giống với Nam Xuân, có dạng: Hò -
Xự - Xang - Xê – Cống – Liu, được nhấn và rung mạnh ở Xự - Xang. Vì có những
nhịp đảo phách trong lòng câu nên điệu nhạc Nam Ai nghe buồn tỉ tê, nức nở
nhưng không quá bi thảm, chỉ ở mức độ khi giãi bày tâm trạng. Bản này thường
phổ biến trong ca Tài tử - Cải lương.
-Nam
Đảo: mang hơi Đảo. Tính chất bản này là biểu hiện nỗi buồn nào đó vừa trôi qua,
trạng thái gay gắt được bắt đầu, thường dự báo xung đột sắp xảy ra hoặc sự mâu
thuẫn nào sắp được giải quyết.
+7 bản Bắc lớn: tức là hơi điệu của 7 bài nhạc Lễ, điệu Bắc Lễ cũng gọi là 7 bài Cò
vì khi kéo đờn cò dây Hạ thì điệu Hạ nghe rất rõ nét, khác hẳn điệu Bắc. Tương
truyền ông Ba Đợi đã đem 7 bài nhạc Lễ truyền dạy cho môn đệ. 7 bài này có cùng
hệ thống với điệu Bắc nhưng dùng chữ Xê – Ú làm âm trục, thỉnh thoảng có sự
tham gia của âm Xư ở đầu câu và Xê rung ở cuối câu. Bảy bài Bắc Lớn gồm:
Xàng Xê
Ngũ Đối thượng
Ngũ Đối hạ
Long Đăng
Long Ngâm
Vạn
Giá
Tiểu Khúc
“Bảy bài”
là tên gọi thông dụng nhất trong dân gian để dành cho bảy tác phẩm âm
nhạc có tính chất nhạc nghiêm trang, dùng trong các buổi tế lễ.
+4 bản Oán:
là nét đặc thù của âm nhạc Tài tử, được kế thừa và sáng tạo trên nền âm nhạc
Huế. 4 bản Oán là nơi lưu giữ những nỗi tâm tư của con người. Điệu Oán kế thừa
yếu tố bi ai, thương nhớ, than thở, giận hờn mà thế hệ trước để lại và diễn tả
điệu buồn sâu xa, có tính chất oán thán. Nhưng nỗi buồn trong điệu Oán là nỗi
buồn sâu xa, bi hùng chứ không bi ai như trong bản Nam Ai. Thang âm của điệu
Oán là Hò - Xự - Xang - Xê - Oán - Liu, được nhấn ở Xự - Xê. Điệu Oán có các
ngón láy thường đi từ hai ngũ cung và điệu thức này có nhiều câu trong các lớp
thường xuyên có mặt chữ Oán nên nghe buồn nhưng kiểu buồn bi hùng. Điệu Oán có 4
bản, bao gồm:
Tứ Đại Oán
Phụng Cầu
Giang Nam Cửu khúc
Phụng Hoàng
Ngoài ra, còn có 4 bản Oán phụ ra đời sau như Bình Sa
Lạc Nhạn, Thanh Dạ Đề Quyên, Ngươn Tiêu Hội Oán, Võ Văn Hội Oán. Điệu Oán đàn
thong thả hơn điệu Nam,
ngân nhiều, nhịp thưa và phải gây ra một cảm tưởng buồn rầu, oán hận, thở than.
4 bản điệu Oán cùng với 6 bản Bắc, 3 bản Nam, 7 bài
Bắc lớn tạo nên hệ thống 20 bản tổ nhạc Tài tử (còn gọi là nhị thập huyền tổ
bản), được lưu truyền rộng rãi trong phong trào đờn ca Tài tử, từ thời kỳ định
hình loại hình âm nhạc Tài tử đến nay.
3. Sự
kết hợp hò, lý Nam Bộ
Trong quá trình hình thành và phát triển loại hình âm
nhạc Tài tử ở Nam Bộ, những điệu hò, lý nhập vào vốn bài bản của nhạc Tài tử.
Trải qua quá trình biến hóa, những điệu hò, lý có điệu thức
chung với điệu thức nhạc Tài tử. Bằng các kĩ thuật biến hóa,
điệu hò, lý trở thành những làn điệu có sức diễn tả sâu sắc mọi tâm trạng, tình
cảm của con người. Điều đó thể hiện sự phong phú, tài hoa của các nghệ sĩ Đờn
ca Tài tử. Họ đã có công biến đổi những bài
dân ca thành những bản thật tình cảm, đặc sắc.
Những điệu hò, lý thường sử dụng trong vốn bài bản của
nhạc Tài tử - Cải lương:
Lý
ngựa ô Bắc
Lý con sáo
Lý ngựa ô Nam
Lý giao duyên
Lý vọng phu
Lý thập tình
Hò Đồng Tháp
Hò Bến Tre
Hò Bạc Liêu
Hầu hết các điệu lý này đều thuộc hơi Bắc. Tuy nhiên,
đó chỉ là sự quy ước cơ bản trong lòng bản, bằng con chữ trên những làn điệu.
Còn khi trình diễn có thể biến hóa, hòa
chung với các hơi Nam,
Xuân, Ai, Oán…
III. Nhạc cụ trong Đờn ca Tài tử
Theo quá trình phát triển của mình, loại hình âm nhạc
Tài tử - Cải lương ở Nam Bộ đã thử nghiệm, chọn lọc với nhiều nhạc cụ khác nhau
để phù hợp với loại hình âm nhạc đòi hỏi những khả năng biểu hiện tình cảm, kỹ
thuật đa dạng và phong phú. Cho đến ngày hôm nay, dàn nhạc Tài tử thường có đờn
kìm, đờn tranh, đờn cò, độc huyền cầm và guitar phím lõm. Tuy nhiên, trong sinh
hoạt Đờn ca tài tử, biên chế ban nhạc không nhất thiết phải đầy đủ các nhạc cụ
mà tùy thuộc vào điều kiện của từng nơi, từng nhóm mà có
những thay đổi. Trên thực tế, chỉ cần một guitar phím lõm hoặc thêm một đàn Kìm
là đã có thể tổ chức sinh hoạt đờn ca tài tử với đầy đủ các bài bản.
1. Đờn kìm (Đàn Nguyệt)
Còn có các tên gọi như đàn nguyệt, vọng nguyệt cầm hay
quân tử cầm, là nhạc cụ thuộc họ dây. Cây đờn kìm vốn được tôn vinh là “thầy”
của các loại nhạc cụ khác trong dàn nhạc Tài tử - Cải lương. Đờn kìm có được
vai trò, vị trí quan trọng trong âm nhạc Tài tử, vì nó có nhiều ưu điểm trong
kỹ thuật diễn tấu.
Trên thế giới không có nhạc cụ nào có cấu trúc giống
như đờn kìm, nhất là cách gắn phím tra dây. Do đó có thể khẳng định nhạc cụ này
hoàn toàn do nghệ nhân Việt Nam sáng chế nhưng sáng chế vào thời đại nào thì
chưa có tài liệu nào nói đến, chỉ đến thời Hậu Lê với Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, đời Lê Cảnh Hưng (1740) mới thấy
đề cập đến tên nguyệt cầm.
Đờn kìm có thùng cộng hưởng (hay còn gọi là bầu vang)
hình tròn, đường kính 36 cm, bề dày của thùng 6 cm, trên thùng có gắn bộ phận
ngựa đàn (cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không có lỗ thoát âm. Toàn bộ đờn
kìm dài 108 cm. Cần đờn gắn bốn trục, trước kia gắn tương ứng với bốn dây (hai
dây chập một), nhưng hiện nay chỉ còn hai dây (một dây to gọi là dây đại hay
dây tồn và một dây nhỏ gọi là dây tiếu, dây liu hoặc dây tang). Cách chỉnh dây
thay đổi tùy theo người sử dụng. Đờn thường gắn tám phím,
phát ra chín thanh âm: Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Liu, Ú, Xáng, Xế. Mỗi âm thanh
của đờn kìm khi nhấn nhá sẽ tạo được bốn âm thanh. Như vậy với hai dây, chúng
ta biến ra được 36 + 36 = 72 âm thanh. Do đó trong giới nhạc Tài tử thường cho
rằng nhạc sĩ nào kết hợp nhuần nhuyễn hai vòng biến hóa
trên hai dây đờn tạo được 72 âm thanh nghe hay và tuyệt thì đã đạt được trình
độ thất thập nhị huyền công. Ngày nay số phím của đờn kìm đã tăng lên đến 10
hay 11 phím.
Đờn kìm tuy số dây và số phím ít nhưng do nhấn nhá
cũng sẽ đạt được một số lượng âm thanh rất dồi dào phong phú, đủ khả năng diễn
đạt mọi lời nói và sắc thái tình cảm con người. Do đó, đờn kìm xuất hiện cả
trong những cuộc hòa tấu nhạc lễ trang nghiêm, những cuộc
hát văn lôi cuốn, những lễ tang bùi ngùi đến những buổi hòa
tấu thính phòng thanh nhã. Người chơi đờn kìm giỏi là người có chữ nhấn độc
đáo, một chữ nhấn hay có thể làm cho người nghe xúc động đến chau mày, lắc đầu,
thở dài.
Đờn kìm là nhạc khí chủ lực chuyên giữ nhịp và bắt
buộc phải có trong các cuộc liên hoan Đờn ca Tài tử. Bản đờn kìm thường là lòng
bản cơ bản, các nhạc khí khác lấy đó đối chiếu để ra bản. Người đờn kìm trong
dàn nhạc Tài tử thường giữ song lang.
2. Đờn cò (Nhị)
Còn gọi là đàn nhị. Đây là một nhạc khí phổ biến thuộc
họ dây, đã có mặt trong nền âm nhạc truyền thống Việt Nam từ lâu đời, đã trở
nên thân quen và gần gũi với mọi người dân Việt Nam. Đờn cò đóng góp một vai
trò vô cùng quan trọng không thể thiếu trong các dàn nhạc dân tộc Việt và là
cây đờn quan trọng thứ hai trong dàn nhạc Đờn ca Tài tử.
Người Nam Bộ gọi là đờn cò vì hình dáng giống
như con cò, trục dây có đầu quặp xuống như mỏ cò - cần đờn như cổ cò - thân đờn
như thân cò - tiếng đờn nghe lảnh lót như tiếng cò.
Đờn cò được cấu thành bởi năm bộ phận: cần đờn bằng gỗ
cứng có tiết diện hình chữ nhật hoặc tròn được uốn ngược về phía sau và có hai
trục lên dây cắm xuyên ngang qua. Dọc đờn có tiết diện hình tròn, phần cuối cắm
xuyên qua bầu đờn. Bầu đờn có đường kính khoảng 6,8 cm, được làm bằng gỗ cứng,
mặt sau loe hình hoa rau muống, mặt trước được bịt bằng da rắn, da trăn hoặc da
kỳ đà. Trên mặt đờn có đặt một mẩu gỗ nhỏ gọi là ngựa đờn. Đờn cò có hai dây.
Xưa dây đờn được se bằng tơ, nay được thay bằng kim loại hoặc nilon. Cung kéo
làm bằng một tay tre uốn cong và chùm lông đuôi ngựa được mắc căng từ hai đầu
và luồn vào giữa hai dây. Người ta còn gắn thêm cục nhựa thông trên bầu đàn để
tăng sự cọ xát giữa dây và cung kéo tạo độ vang cho âm thanh. Mang đặc tính phổ
biến nên hình dáng, kích cỡ và nguyên liệu làm đờn cò cũng khác nhau đôi chút tùy theo tộc người sử dụng nó. Người Việt thường thích những
âm thanh cao, do vậy ống nhị thường nhỏ hơn các nước khác.
Âm thanh của đờn cò rất độc đáo, bởi nó có thể thể
hiện nhiều cung bậc tình cảm của con người, khi êm dịu lai láng khi ai oán bi
thương, âm thanh kim pha thổ của đờn cò khi cất lên những bài bản quen thuộc
như Xuân Nữ, Nam Ai, Lưu Thuỷ... dễ làm rung động người nghe. Trong hệ
thống 20 bài bản tổ của Đờn ca Tài tử có đến bảy bài Cò hay còn gọi là bảy bài
nhạc Lễ. Khi trình diễn bày bài này, bắt buộc phải có đờn cò mới ra tính đặc
thù của Nhạc lễ Nam Bộ.
Ngoài dàn nhạc đờn ca Tài tử, đờn cò còn có mặt trong
các dàn nhạc phường Bát âm, Ngũ âm, Nhã nhạc, Chầu văn, Cải lương, dàn nhạc dân
tộc tổng hợp, dân ca…Hiện nay, trong dàn nhạc Đờn ca tài tử, một số nhạc công,
ban nhạc đã thay đờn cò bằng đàn Violon, âm thanh nghe du dương hơn, bớt đi
tính ai oán của âm sắc đờn Cò.
3. Đờn
tranh
Còn được gọi là đàn thập lục. Đàn thuộc họ dây chi gảy.
Trước kia vì có 16 dây nên đàn còn có tên chữ là thập lục nhưng ngày nay, đờn
được thêm nhiều dây nên gọi chung là đờn tranh. Đờn tranh là nhạc khí quan
trọng thứ ba trong dàn nhạc Đờn ca Tài tử.
Đờn tranh có nguồn gốc từ Trung Quốc, du nhập vào Việt
Nam
từ khoảng thế kỉ XIII. Khung đờn hình thang trước đây dài 97cm, ngày nay dài 110
- 160cm. Đầu lớn rộng khoảng 25 - 30 cm là đầu có lỗ và con chắn để mắc dây.
Đầu nhỏ rộng khoảng 15 - 20 cm gắn 16 khoá lên dây chéo qua mặt đờn. Mặt đờn
làm bằng ván gỗ ngô đồng
uốn hình vòm. Ngựa đờn
nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Dây đờn làm bằng kim
loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa đờn dùng dây tơ, sau thay
bằng dây đồng và đến đầu thế kỷ XX dây đờn được thay bằng
dây sắt. Đờn tranh thời Lý - Trần chỉ có 15 dây nên được gọi là thập ngũ huyền
cầm. Đến thời Nguyễn, đờn được sử dụng với 16 dây nên gọi là thập lục huyền
cầm. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo ba móng gẩy vào ngón cái, trỏ và giữa
để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim
loại, sừng
hoặc đồi mồi.
Thang âm trong đờn tranh thường được tính từ trầm đến
bổng, trên các dây từ lớn đến nhỏ như sau: Lìu, Ụ, Xang, Xê, Cống, rồi Liu, U,
Xang, Xê, Cống, rồi Líu, Ú, Xáng, Xê, Cống. Và cứ như vậy, thang âm dần dần đi
từ âm vực cực trầm đến âm vực cực bổng. Số âm vực tùy thuộc vào số lượng của
dây đờn. Âm sắc đờn tranh trong trẻo, thanh tao, sáng sủa
thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, trong sáng hoặc man mác buồn. GS.TS Trần
Văn Khê đã so sánh tiếng đờn tranh “như tiếng giọt nước rơi trên pha lê”.
Nhưng âm thanh của đờn tranh hơi mỏng, thánh thót nên không thích hợp với những
bản nhạc mang âm sắc trầm hùng, khỏe mạnh. Đờn tranh có thể
mô phỏng cả tiếng suối chảy róc rách, tiếng sóng vỗ, mưa rơi, gió thổi… mà các
nhạc khí khác khó thể hiện.
Đờn tranh thường được sử dụng để độc tấu,
hòa tấu, đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia trong các dàn nhạc Tài
tử, phường bát âm, dàn Nhã nhạc và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Người Việt Nam dùng đờn tranh và tạo cho nó
một phong cách đặc thù riêng trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, thang âm
điệu thức. Đờn tranh đã thành nhạc cụ hoàn toàn mang tính dân tộc Việt Nam vì đã được người Việt ưa dùng,
truyền từ đời này đến đời kia trong suốt 700 - 800 nǎm, phù hợp với quan điểm
thẩm mỹ của người Việt và ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam.
4. Độc
huyền cầm
Còn có tên gọi khác là đờn Bầu thuộc họ dây chi gảy. Đây
là nhạc khí quan trọng thứ tư trong dàn nhạc Đờn ca Tài tử và là nhạc khí độc
đáo của dân tộc Việt Nam.
Cũng như hầu hết các nhạc khí khác của Việt Nam, độc huyền
cầm không biết do ai sáng chế và xuất hiện từ thời kỳ nào. Hiện nay có rất
nhiều truyền thuyết với nhiều dị bản của chuyện Trương Viên về sự ra đời của
đờn độc huyền cầm. Vì độc huyền cầm xuất phát từ dân gian nên ít được nhắc đến
trong sách sử. Phải đến thời vua Thành Thái, độc huyền cầm mới được thay thế
đàn tam và có mặt trong dàn Ngũ tuyệt.
Độc huyền cầm có dạng hình hộp chữ nhật, một đầu to,
một đầu nhỏ, thường dài 80 – 110 cm, bề ngang 9 – 12 cm. Mặt đờn và đáy đờn
bằng gỗ ngô đồng, gỗ thông hay gỗ tung. Thân đờn bằng gỗ cứng như cẩm lai, hoặc
mun. Trên thân đờn phía tay mặt người khảy đờn có một miếng xương hoặc kim loại
nhỏ gọi là ngựa đờn. Qua ngựa đờn, sợi dây duy nhất bằng thép dày khoảng 40mm
được luồn xuống lỗ xoi trên mặt đờn và cột vào cái trục lên dây đờn. Cần đờn có
mang một vỏ quả bầu khô dùng làm hộp cộng hưởng. Ngày nay, để tăng âm lượng
tiếng đàn, người ta lắp mobin điện vào dưới mặt đờn, đồng thời phải khoét một
lỗ cắm dây "crắc" dẫn tín hiệu rung của dây vào
bộ phận tăng âm. Chính vì dùng điện nên dây đờn phải dùng dây bằng thép thay vì
bằng inox.
Cái độc đáo của độc huyền cầm là cấu trúc rất đơn
giản, chỉ có một dây kim. Đờn không có phím và chỉ sử dụng cần rung để nhấn chữ
đờn. Cấu trúc đơn giản nhưng độc huyền cầm diễn tả được mọi cung bậc của âm
thanh và tình cảm. Âm thanh cũng mang sức quyến rũ lạ kỳ, hoàn toàn chỉ sử dụng
bồi âm, do đó âm sắc của độc huyền cầm đặc biệt êm dịu, tinh khiết. Kết hợp với
khả năng luyến láy rất mềm mại nên âm thanh độc huyền cầm gần với giọng người.
Vì vậy mà độc huyền cầm trở thành nhạc khí phổ biến và được nhiều người ưa
thích.
Trong số những cây đờn một dây của các nước trên thế
giới như đàn Gopi Yantra của Ấn Độ, đàn Ixian qin (nhất huyền cầm) của Trung
Quốc, đàn Sadev của Campuchia, đàn Ichigenkin của Nhật Bản… không có cây đàn
một dây nào phát ra cả một hệ thống bồi âm vừa có tính phổ cập, vừa có tính
nghệ thuật cao như độc huyền cầm của Việt Nam.
Ngày
xưa độc huyền cầm là nhạc cụ
của những người hát rong . Về sau này độc huyền cầm đã tham gia trong các dàn
nhạc Chèo, Tài tử, hát Bội, Cải lương, đờn độc tấu, hòa
tấu, đệm cho ca, ngâm thơ… và còn hòa chung với dàn nhạc
giao hưởng. Hiện nay có rất nhiều tác phẩm đã sáng tác riêng cho đờn bầu độc
tấu.
Guitar phím lõm
thuộc bộ dây chi gảy, còn có các tên gọi khác như: guitar vọng cổ, guitar cải
lương, lục huyền cầm, guitar Việt Nam… Bên cạnh những nhạc khí được
đưa từ miền Trung vào như đờn cò, đờn nhị…, từ giữa thế kỷ
XIX đến nay, sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây đã tác động
rất lớn đến đời sống âm nhạc trong đó có cả dàn nhạc Đờn ca Tài tử. Đàn guitar
của phương Tây xuất hiện từ những năm 20 thế kỷ XX, được
các nghệ nhân cải biến trong suốt quá trình phát triển của loại hình âm nhạc
Tài tử - Cải lương ở Nam Bộ và trở thành loại nhạc khí độc đáo của Việt Nam.
Bên cạnh vai trò của các nhạc khí khác như: đờn tranh, đờn kìm, đờn cò... cũng
có thể nói rằng guitar phím lõm là linh hồn của ban nhạc Tài tử - Cải lương.
Để có được cây đàn guitar phím lõm như hôm nay, đó là
cả một quá trình thử nghiệm, chọn lọc với nhiều nhạc cụ phương Tây khác nhau và
chính ngay cây guitar phím lõm tự nó cũng đã là một quá trình điều chỉnh, cải
biến để phù hợp với loại hình âm nhạc đòi hỏi những khả năng biểu hiện tình
cảm, kỹ thuật đa dạng và phong phú. Đầu thập niên 30 của thế kỷ trước, guitar
xuất hiện trong nhạc tài tử cải lương rồi chìm vào quên lãng, mãi đến năm 1937
đàn guitar "tái xuất giang hồ". Nhưng lần này, guitar mang diện mạo
khác, đó là các phím đàn được khoét lõm như mandolin phím lõm. Người thực hiện
khoét lõm cây đàn guitar và thay những dây nylon bằng dây kim loại có thể là
ông Trần Bửu Lương (Mười Út) - một nghệ nhân đồng thời là một thợ làm đàn
guitar ở Sài Gòn.
Ông Chín Hòa được xem là người đầu
tiên sử dụng guitar phím lõm để đàn vọng cổ với đĩa hát Asia thu bài Dạ cổ hoài
lang nhịp 8 Nặng gánh nợ đời do nghệ sĩ Năm Nghĩa ca. Và cũng từ đó, mandolin
phím lõm nhường bước trước sự phát triển và không ngừng hoàn thiện của guitar
phím lõm cuối thập niên 30, khi nó được các tay đờn lão luyện của âm nhạc tài
tử cải lương khoét lõm phím và thổi vào nó những "chữ đờn" mê hoặc
lòng người, giới tài tử cải lương mới công nhận rằng nó là nhạc cụ không thể
thiếu trong các ban nhạc của mình và guitar phím lõm được sủng ái từ đó...
Năm 1937, đờn guitar phím lõm đầu tiên xuất hiện với hai
cách lên dây là Xề bóp và Xề buông (sau gọi là dây Sài Gòn). Đầu tiên guitar
phím lõm ra đời được mang tên là “lục huyền cầm” tuy nó chỉ có bốn dây. Cho đến
ngày nay, nó được sử dụng phổ biến với hệ thống gồm năm dây. Đó là cả một quá
trình cải biến, điều chỉnh với sự đóng góp của nhiều nghệ nhân danh tiếng trong
làng nhạc Tài tử Cải lương. Từ cây đàn guitar ban đầu, người ta khoét các phím
lõm xuống cần đàn chừng 1cm, hình bán nguyệt để ngón tay có thể vừa bấm vừa
rung dây đờn, tạo ra âm thanh khác biệt, tạo độ ngân rung đặc trưng, thể hiện
chữ nhạc dân tộc Việt Nam rõ nét và sâu sắc hơn. Dây đờn được lên theo âm giai
ngũ cung. Khoảng những năm 40 thế kỷ XX, cách lên dây Lai
của guitar phím lõm
ra đời. Từ đó, các dây khác ít được sử dụng vì dây Lai khi chuyển hơi, chuyển
cung đều rất dễ dàng và có thể chơi được cả bản Nam, bản Bắc, bản Oán cho đến
vọng cổ. Tuy nhiên, khi đờn bản Bắc và bản Nam thì guitar phím lõm không hay
bằng đờn kìm.
Từ cây đờn guitar của phương Tây, các nghệ nhân Việt Nam đã
cải biến trở thành guitar phím lõm với hình dáng, cách lên dây, kỹ thuật đánh khác xa so với cây đờn gốc và hiển nhiên được
xem như là nhạc cụ của dân tộc Việt. Guitar phím lõm tuy xuất hiện muộn nhưng
đã có thời điểm trở nên phổ biến, được dùng thay cho cả những cây đờn truyền
thống. Trong dàn nhạc Đờn ca tài tử ngày nay, guitar phím lõm không thể vắng
mặt vì nó góp vào những tiếng trầm, những chữ chuyền độc đáo mà các đờn khác
không làm được. Guitar phím lõm chủ yếu chơi trong dàn nhạc của Cải lương, Đờn
ca Tài tử Nam Bộ.
6. Song lang (song loan):
Là nhạc khí tuy không được nhắc đến trong hình thức
dàn nhạc Tài tử nhưng nhất thiết phải có. Song lang dùng để gõ vào nhau khi câu
nhạc hoặc nhịp quan trọng. Ngày nay song lang là một miếng gỗ trắc hình tròn,
phía trước được chẻ làm đôi, phía sau gắn một miếng sừng có công dụng làm lò
xo. Đầu miếng sừng có miếng gỗ hình tròn như viên đạn. Có thể dùng tay bóp
nhưng thường song lang được đặt dưới chân để gõ nhịp. Trong dàn nhạc Tài tử -
Cải lương, người đờn kìm hoặc người đàn Guitar phím lõm “chắc nhịp” sẽ giữ song
lang để điều hòa tốc độ chung của dàn nhạc.
Ngoài các loại nhạc cụ trên, đàn Tỳ bà, Sáo trúc đôi
khi cũng có tham gia trong ban nhạc Tào tử - Cải lương, nhưng không phổ biến.
III. Đặc điểm của Đờn ca Tài tử
1. Tính
ngẫu hứng
Đờn ca Tài tử thật sự là những cuộc chơi tao nhã của
giới bình dân, của những tâm hồn phong lưu tìm bạn tri âm qua lời ca tiếng
nhạc. Người chơi Tài tử chính thống khi ngẫu hứng sẽ đờn, còn không hứng thì
thôi, không ai có thể mua được tiếng đờn của họ. Trong cuộc chơi, họ so tài cao
thấp trong từng ngón đờn, sự nhịp nhàng, bài bản, giọng ca... Và sau mỗi cuộc
chơi, mỗi người, mỗi nhóm trao đổi ý kiến, học hỏi thêm để tay đờn thêm chắc,
giọng hát thêm hay. Người ta có thể chơi Đờn ca Tài tử mọi lúc mọi nơi: trong
đám hội, lúc nông nhàn, khi rảnh rỗi, ngoài bờ đê, cạnh bờ sông hay là khi thả
thuyền trên sông. Có khi đang làm việc ngoài đồng, thấy có nhóm đàn ca, liền bỏ
cuốc bỏ cày vào chung vui với mọi người quên cả công việc. Không ai quy định
một cuộc chơi Tài tử phải có số lượng bao nhiêu và thời gian bao lâu. Bất cứ ai
biết đàn, biết ca có thể tham gia cuộc chơi đầy ngẫu hứng này. Cuộc so tài càng
cao, càng hấp dẫn thì người xem càng cổ vũ nồng nhiệt. Một cuộc chơi Tài tử ít
nhất cũng vài tiếng đồng hồ, có khi kéo tới 2 - 3 ngày. Ai đờn mệt, ca mệt thì
ra nghỉ, người khác vào chơi thay, xong thì lại vào chơi tiếp, chơi tới hết
người thì thôi. Vì tính tài tử đó mà Đờn ca Tài tử dễ bị hiểu lầm là bình dân,
không chuyên nghiệp.
Mặc dù bắt nguồn từ Nhã nhạc cung đình Huế nhưng dàn
nhạc Tài tử không bị ràng buộc, gò bó vào những định chuẩn về chủng loại, số
lượng nhạc khí, hay về thể thức và trình tự diễn tấu cũng như chưa có quy định
cụ thể nào về biên chế một dàn nhạc Tài tử ổn định. Đờn ca Tài tử Nam Bộ có khi
đờn một mình (độc chiếc), độc tấu đờn kìm, đờn tranh. Nhưng thường thì ít nhất
có hai cây đờn khác nhau về âm sắc cùng hòa với nhau.
Thường thấy nhất là song tấu đờn kìm và đờn tranh - là sự kết hợp giữa tiếng tơ
và tiếng sắt - mà giới chuyên môn gọi là “sắt cầm hảo hiệp”, hoặc song
tấu đờn tranh và đờn cò. Tam tấu với ba cây: đờn kìm - đờn tranh - đờn cò; đờn
kìm - đờn tranh - độc huyền cầm; còn đờn tranh - đờn cò - độc huyền cầm với từ
chuyên môn là tam chi liên hoàn pháp. Đờn kìm, đờn tranh và đờn cò có ba
sắc thái và màu âm khác nhau, hòa cùng nhau sẽ tạo thành
tiếng nhạc tam tấu nghe rất êm tai, dễ chịu. Năm cây: đờn kìm, đờn tranh, đờn
cò, độc huyền cầm và ống tiêu hòa với nhau thì gọi là ngũ
tuyệt.
Một điểm đặc biệt của nhạc tài tử là lối đàn ngẫu hứng
- tương tự lối chơi ngẫu hứng trong nhạc jazz của phương Tây. Cũng cùng một
lòng bản, nhưng mỗi nhạc khí có kỹ thuật biểu diễn khác
nhau và tạo nên nét đặc trưng độc đáo với một số kỹ thuật
như: rung, nhấn, luyến, láy, vuốt, mổ... và kỹ thuật về âm
hình, tiết tấu. Dựa trên bài bản truyền thống của nhạc Tài tử, kết hợp với sự
vận dụng nhuần nhuyễn các kỹ thuật, người nghệ sĩ sẽ sáng
tạo ra một bài nhạc mới, tức thời, biến hóa tiết tấu, thay
đổi cường độ, tạo chỗ ngưng nghỉ để cho ra một bè đàn có tính cách riêng, nhưng
đồng thời phải hòa hợp với những nghệ sĩ cùng diễn khác.
Lối hòa đàn như vậy của Đờn ca Tài tử được các nhà nghiên
cứu âm nhạc Việt Nam
gọi là lối “hòa tấu biến hóa lòng
bản”. Chính vì thế mà mỗi lần nghe lại cùng bản đàn, khán thính giả luôn
luôn thấy mới lạ và hài hòa.
Có lẽ phần ngẫu hứng nhất trong nhạc Tài tử là phần rao
của người đờn hoặc nói lối của người ca trước khi vào bản đờn chính. Câu
rao là câu nhạc khởi đầu, rất ngẫu hứng của người chơi đờn dùng để thử dây đồng
thời thử đờn. Rao để lên dây đờn cũng là lúc nghe thử cây đàn có phím nào lệch
hay dây đàn cứng quá hoặc mềm quá không, để lúc biểu diễn tiếng nhạc được hoàn
chỉnh hơn. Câu rao không có nhịp phách cố định, không có lòng bản như bản đờn,
người chơi câu rao chỉ cần theo đúng điệu thức đã chọn lựa mà sáng tác. Câu rao
sẽ gợi cảm hứng cho bạn diễn, tạo không khí cho dàn tấu, và chuẩn bị hình
tượng âm nhạc cho người thưởng thức khi dẫn thính giả đi lần vào điệu thức, vào
hơi để nghe bản đàn. Câu rao cũng có tác dụng giúp cho người ca tài tử bắt được
cao độ của bài bản sắp trình bày.
Theo GS.TS Trần Văn Khê thì:
Câu
rao chẳng những tạo một bầu không khí phù hợp với bản đờn, vui tươi cho bản
Bắc, nghiêm trang cho bản Nhạc, êm ả cho bản Xuân, buồn dịu cho bản Ai, mà còn
là một dịp để nhạc công thử dây đờn như người chơi kỵ mã thử ngựa, và lúc đó
người nhạc công có thể phô tài của mình hay tuỳ hứng sáng tác những khúc mới lạ.
Ngoài ra, khi trình tấu, các nghệ sĩ cũng có thể dùng
tiếng đàn của mình để “đối đáp”, “thách thức” bạn cùng diễn. Chính vì vậy mà
nhạc Tài tử luôn luôn sinh động và hấp dẫn người nghe. Câu rao theo
truyền thống Nam Bộ phóng túng và đầy ngẫu hứng. Mỗi người thầy có một cách
rao, lúc đầu người học đàn theo cách của thầy, nhưng khi đạt đến mức nghệ thuật
khá cao thì người nghệ sĩ được phép sáng tạo những câu rao của riêng mình.
Chất tài tử và chất nghệ sĩ luôn quyện vào nhau ở
người đờn, người ca. Họ chơi đờn ca Tài tử với đầy tính ngẫu hứng nhưng vẫn
tuân theo phương thức ngẫu hứng trên lòng bản. Chính ngẫu hứng đã tạo nên hơi
thở cho Đờn ca Tài tử để những cuộc chơi của người nghệ sĩ cứ tiếp nối từ đời
này sang đời khác.
GS.TS Yamaguti (Nhật Bản) - người đã giới thiệu nghệ thuật Nhã nhạc
cung đình Huế với công chúng Nhật Bản và UNESCO, từng nhận định rằng:
Những dạng trình diễn âm nhạc mang tính ngẫu hứng không chỉ có ở Việt Nam mà có
thể bắt gặp ở nhiều quốc gia khác, trong truyền thống âm nhạc châu Phi cũng như
âm nhạc đương đại và những loại hình âm nhạc đại chúng như rock, blue, jazz...
Tuy nhiên số lượng các loại hình âm nhạc cổ truyền, được truyền lại qua nhiều
thế hệ như nghệ thuật Đờn ca tài tử ở
Nam
Bộ thì không nhiều.
Ngẫu hứng là đặc điểm nổi bật và được xem như
một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của một buổi chơi Đờn
ca Tài tử ở Nam Bộ.
2. Tính bác học
- Tư tưởng Khổng - Mạnh:
Như trên đã tìm hiểu, Đờn ca Tài tử bắt nguồn từ Ca
Huế. Vì phục vụ cho tầng lớp thượng lưu, cao quý nên những nhà viết nhạc thường
là nhà Nho trí thức. Họ mang tư tưởng của Khổng - Mạnh “Quân xử thần tử/ Thần
bất tử bất trung. Phụ xử tử vong/ Tử bất vong bất hiếu” nên nội dung chủ yếu thể
hiện sự yêu mến, ngưỡng vọng và lòng trung thành đối với Quân - Sư - Phụ. Khi
những nhà Nho ấy theo phong trào Cần Vương vào Nam đã mang theo loại nhạc này. Nó
được biến đổi về ca từ, giai điệu để phù hợp với ngôn ngữ và phong tục tập quán
của người dân Nam Bộ nơi đây, tiêu biểu là trưởng nhóm miền Đông, ông Ba Đợi và
trưởng nhóm miền Tây, ông Nhạc Khị. Hai ông dựa trên nền nhạc sẵn có để đặt lời
ca tương ứng. Các ông tổ chức giảng dạy, truyền bá nhạc Tài tử khắp nơi, nhiều
người theo học và nối nghiệp thầy. Thế hệ sau này có ông Cao Văn Lầu (Sáu Lầu)
sinh năm 1892, mất 1976, là người sớm bộc lộ tài năng, biết nhiều chữ nghĩa,
ông sáng tác bài Dạ cổ hoài lang (đêm nghe tiếng trống nhớ chồng) là bản
tiền thân của Vọng cổ ngày nay. Với lực lượng sáng tác đông đảo có trình độ
cao, nhiều bản nhạc Tài tử đã ra đời với một hệ thống chặt chẽ gồm những bài
bản lớn như: Nam,
Oán, Ngự.
- Nam
có 3 bài: Nam Xuân, Nam Ai, Nam
Đảo (Đảo Ngũ Cung).
- Oán có 4 bản nội và cũng là 4 bản chính:
Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng Lai Nghi, Giang Nam Cửu Khúc, Phụng Cầu Hoàng Duyên.
Sau này có thêm 4 bản Oán ngoại: Bình Sa Lạc Nhạn, Than Dạ Đề Quyên, Ngươn Tiêu
Hội Oán Và Võ Văn Hội Oán.
- Ngự có 8 bài:
· Bát Man tấn cống: Tám tộc man di vào chầu thiên tử. Thể
hiện niềm hân hoan chào đón nhà vua.
· Đường Thái Tôn: Tôn vua Thành Thái như vua Đường Thái Tôn
ở Trung Quốc được thần dân kính yêu, mến phục.
· Vọng phu: Trông chờ được diện kiến vua như người vợ khắc
khoải mong chờ chồng.
· Chiêu Quân: Lòng dân miền Nam như nàng Chiêu Quân, tuy đem
thân cống Hồ nhưng vẫn một lòng với cố quốc.
· Ái tử kê: Xin vua xem xét thương người miền Nam như gà mẹ
thương đàn con nhỏ.
· Tương tư: Vì hoàn cảnh phải xa cách nên tâm trạng nhớ
thương vua như thương nhớ người yêu.
· Duyên kỳ ngộ: Bất ngờ gặp vua như mối
duyên diệu kỳ.
· Quả phụ hàm oan: Miền Nam bị tiếng theo Pháp, nỗi oan này
như người thiếu phụ hàm oan với chồng.
Các ông cũng cải biên những bài Ca Huế sang những bài
nhạc Tài tử như: bài Bình Bán của Ca Huế được phát triển thành Bình Bán Vắn,
Lưu Thủy Huế thành Lưu Thủy Đoản, Kim
Tiền Huế thành Kim Tiền Bản, Phú Lục Huế thành Phú Lục Chấn, Bình Bán Huế thành
Bình Bán Chấn … tất cả đều mang tên tiếng Hán.
- Triết lý âm dương – ngũ hành:
Tính bác học của Đờn ca Tài tử còn thể hiện ở việc nó
tương ứng với âm dương – ngũ hành. Nếu ngũ hành là: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ thì Đờn ca Tài tử cũng có
năm cung bậc tương ứng từ cao đến thấp là: Hò - Xự - Xang – Xê - Cống. Ta có
tam tài: Thiên - Địa – Nhân thì Đờn ca Tài tử có 3 Nam:
Nam ai (Nhân), Nam xuân (Thiên), Nam đảo (Địa). Tứ tượng (bốn mùa)
tương ứng với 4 Oán. Về âm – dương, trong Đờn ca Tài tử cũng có nhịp nội nhịp
ngoại đối nhau. Nhịp nội ứng với dương (+) còn nhịp ngoại ứng với âm (-), cụ
thể là trong các bài Bắc, Nam. Tác giả Đỗ Dũng trong quyển “Sân
khấu Cải lương Nam
Bộ 1918 – 2000” có nhận định:
Theo triết học phương Đông: nhật (dương), nguyệt (âm)
tức là trời đất sinh ra ngũ hành và ngũ hành biến hóa thành
vạn vật. Còn nhạc Tài tử có nhịp ngoại - nội, lấy ngũ cung làm nền tảng để rồi
“thiên biến vạn hóa” ra biết bao chữ nhạc trong các bài
bản. Tính triết lý của nhạc Tài tử cơ bản là ở chỗ đó.
Hay trong quyển “Âm nhạc Cải lương tính năng, giai
điệu” tác giả có nói thêm: “Từ năm cung biến hóa ra
muôn vạn âm sắc, có hơn 200 giai điệu trong âm nhạc Cải lương, mà trong các
giai điệu chỉ quy về năm đầu mối chính”.
Có thể nói, Đờn ca Tài tử đã vận dụng rất tinh tế
triết lý âm - dương vào những sáng tác của mình làm cho tiếng đờn, lời ca như hòa cùng với đất trời.
- Tính mô phạm (văn hóa tâm linh):
Đờn ca Tài tử là một phong trào, không mang tính
chuyên nghiệp mà mang tính tự phát và tự giác. Họ có hứng thì chơi, không thì
thôi không ai bắt ép được họ. Những lúc rảnh rỗi, họ họp nhau lại cùng đờn cùng
ca. Có khi đang đi công việc, thấy đờn ca vui quá liền ghé vào ngồi tới tối rồi
về quên cả công chuyện đang làm. Thậm chí có người mê quá còn bỏ nhà cửa đi
theo các gánh hát. Đờn ca Tài tử có trường phái nhưng không có trường lớp. Việc
truyền đạt không theo trường lớp chính quy mà theo kiểu truyền nghề truyền
thống “cầm tay chỉ việc”. Nó mang tính chất tâm linh là cảm xúc từ con tim, đưa
vào lý trí (bộ óc) để cảm nhận. Nói như vậy là bởi vì có người không biết gì về
nhạc lý hay các bài bản, thậm chí có người còn không biết chữ nhưng chỉ cần
nghe qua họ có thể thuộc làu làu, đàn hay hát hay.
- Tính thính phòng:
Đờn ca Tài tử mang tính bác học, sang trọng không khác
gì nhạc phương Tây. Nếu nhạc quãng 8 có Đồ - Rê - Mi - Pha - Son - La - Si với
những nốt trầm bổng thì Đờn ca Tài tử cũng có 5 cung Hò - Xự - Xang - Xê - Cống
với những âm vực cao thấp thể hiện đủ mọi cung bậc cảm xúc: hỉ - nộ - ái - ố -
bi - hài… Nhạc Tài tử còn giống nhạc giao hưởng ở chỗ là nó cũng có những
chương, hồi, có cao trào và thoái trào, có cấu trúc chặt chẽ về thang âm, điệu
thức.
- Văn chương bác học:
Do tiếp xúc nhiều với sách vở của Tàu, nên các tác giả
đưa nhiều điển cố, điển tích hay những nhân vật nổi tiếng của Tàu vào tác phẩm
của mình. Như bài ca: Tô Huệ chức cẩm Hồi Văn (điệu: Nam Xuân - Nam Ai)
dựa vào điển tích: Tô Huệ - người đời nhà Trần (Trung Quốc) quê ở Thị Bình, còn
tên là Nhược Lan. Nàng có tài văn chương, do nhà nghèo nên về làm vợ thứ Đậu
Thao. Ít lâu sau, Đậu Thao lấy thêm hầu thiếp, không mặn nồng với nàng. Sau đó,
Đậu Thao vâng lệnh vua đi thú ngoài biên ải. Nàng Tô Huệ làm bài thơ Hồi văn
rồi dệt vào gấm, dâng lên vua xin tha cho chồng về. Vua xem xong khen tặng bài
thơ của nàng và xúc động nên truyền lệnh cho Đậu Thao trở về.
Hay bài ca: Bá Lý Hề (soạn lời: Trần Quang
Quờn, điệu: Tứ Đại Oán) dựa vào điển tích: Bá Lý Hề người nước Ngu (Trung Quốc)
tên là Tỉnh Bá, ba mươi tuổi mới cưới Đỗ Thị làm vợ. Tỉnh Bá học giỏi, có tài,
vâng lệnh đi sứ bị bắt giữ lại cho chăn trâu. Trần Mục Công biết mới chuộc Tỉnh
Bá về bằng năm bộ da dê. Đỗ Thị ở nhà chờ đợi mòn mỏi, bồng con đi tìm chồng.
Khi Bá Lý Hề làm thừa tướng cho nước Tần, Đỗ Thị dò xét biết được, nhân dịp
trong Tướng phủ đang tìm người may vá liền xin vào ở may. Nhân dịp tiệc tùng có
ca hát, Đỗ Thị nài nỉ nhạc công cho lên nhà khách ca giúp. Khi Bá Lý Hề nghe Đỗ
Thị mượn lời ca để kể lại mối tình vợ chồng khi xưa, liền nhận ra người vợ thủy chung, hai người cùng ôm nhau khóc với bao nỗi mừng vui sum hợp.
Các tác tác giả cũng hay nhắc đến tích truyện Tư Mã
Tương Như với tiếng đàn của mình ca khúc Phượng Cầu Hoàng (chim phượng
trống tìm chim phượng mái) đã làm Trác Văn Quân mê mẩn và từ đó nên duyên cầm
sắt.
Phần ngâm của Đờn ca Tài tử: có những bản ngâm riêng
biệt, ngũ ngôn, bát cú, tứ cú, song thất hay thượng hạ lục bát (Năm Hưng). Đó
đều là những thể thơ bác học.
Tính bác học còn thể hiện ở đề tài, chủ đề của những
bài đờn ca Tài tử. Lấy đề tài từ những sự kiện lịch sử như: cuộc khởi nghĩa của
hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị đánh quân Hán hay sự kiện về một cô gái dũng
cảm trong cuộc khởi nghĩa Đồng Khởi, có khi nhắc lại các triều đại Phong kiến
xưa. Nội dung của các bài nhạc Tài tử này là ca ngợi quê hương, đất nước, thể
hiện niềm tự hào dân tộc. Vì thế cho nên lời ca, tiếng hát mang âm điệu hào
sảng, hùng tráng như một lời khẳng định mạnh mẽ khí phách anh hùng của nhân dân
cả nước nói chung và của Nam Bộ nói riêng.
Tính bác học còn thể hiện rõ trong hệ thống bài bản
của Đờn ca Tài tử bao gồm 20 bài bản tổ: 6 Bắc, 3 Nam, 4 Oán, 7 Nhạc (Lễ). Do nguồn
gốc xuất phát và được nuôi dưỡng, gây dựng bởi những bậc trí thức Nho học kỳ tài vì thế mà vào thời sơ khai của Đờn ca Tài tử trải
dài suốt triều Nguyễn cho đến đầu thế kỷ XX, nó luôn là thú
vui chơi của tầng lớp quý tộc. Các nhóm Đờn ca Tài tử tiếng tăm như ban của ông
Tư Triều và Hai Triều ở Mỹ Tho, Tiền Giang thường được giới quý tộc săn đón,
mời mọc biểu diễn.
3. Tính dân gian
- Về hình thức:
Người ta chơi Đờn ca Tài tử không phải trong những căn
phòng sang trọng hay trong những phòng thu hiện đại mà có thể là bất cứ nơi đâu
như trên bờ, dưới nước hay dưới gốc cây. Không ăn mặc chải chuốt mà bình dị như
trong sinh hoạt hằng ngày. Đờn ca Tài tử xuất phát từ trong dân gian nên nó
mang đậm tính bình dân, giản dị của cuộc sống nông nghiệp. Con đường phát triển
của nó cũng khá đơn giản, không cần trường lớp, chỉ cần nghe ca rồi thuộc, nghe
đàn rồi đàn theo. Theo tác giả Đỗ Dũng: “…ca ngâm thì bằng phương tiện truyền
khẩu là chính, mà tính truyền khẩu là đặc trưng của dân gian”. Vậy mà Đờn ca
Tài tử đã tồn tại và phát triển hơn 100 năm qua với biết bao biến cố của lịch
sử.
- Về nội dung:
Bất kỳ nền văn học - nghệ thuật nào đều phát triển dựa
trên dòng suối mát lành của văn học dân gian. Khi Ca Huế từ Huế vào nó đã gặp
một môi trường rất phong phú, đa dạng của dân ca Nam Bộ. Sự gặp gỡ và kết hợp
ấy cùng sự sáng tạo của các nghệ nhân đã tạo nên đờn ca Tài tử ngày hôm nay. Có
thể nói văn học dân gian là cái nôi vững chắc nhất, là tiền đề cơ bản nhất để
phát triển Đờn ca Tài tử.
- Hò: là những câu hát lúc nghỉ ngơi sau
những giờ làm việc mệt mỏi. Hò ở miền Nam mang đậm sắc thái riêng, nổi
bật nhất là Hò chèo ghe, vì địa hình nhiều sông ngòi, kênh rạch. Ở mỗi
địa phương đều có những giọng hò mang tên địa phương mình: Hò Bến Tre, Hò Hậu
Giang, Hò Đồng Tháp…
- Lý có rất nhiều bài, vừa kế thừa truyền
thống vừa có sự sáng tạo. Như từ Lý Ngựa Ô Thừa Thiên thành Lý ngựa ô
Nam Bộ, sau đó là Lý
ngựa ô Bắc, Lý ngựa ô Nam
trên sân khấu Cải lương. Có các điệu Lý như: Lý chuồn chuồn, Lý
con khỉ đột, Lý dĩa bánh bò, Lý che hường…
- Hát: khi nghỉ ngơi hay lúc bận rộn ngoài
đồng, họ cũng hát lên vài câu nghe cho vui tai. Ở miền Nam có: hát hò
khoan, hát đối, hát ru em, hát giã gạo…
Nội dung của dân ca Nam Bộ thường là nói về tình yêu
nam nữ, mang tính trữ tình nhưng không bi lụy mà ngược lại
nó dí dỏm, vui tươi và hài hước. Điều này làm tăng thêm niềm vui trong cuộc
sống của những người dân Nam Bộ.
Đờn ca Tài tử đã sử dụng những chất liệu của dân ca
Nam Bộ để tạo nên tính bình dân, giản dị. Trong bài Vọng cổ Tình anh bán
chiếu của soạn giả Viễn Châu đã mở đầu bằng câu hò:
Hò ơ... Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm. Công tôi cực
lắm, mưa nắng dãi dầu. Chiếu này tôi chẳng bán đâu. Tìm em không gặp... Hò ơ...
Tìm em không gặp tôi gối đầu mỗi đêm...
Hay bài Nhớ mẹ cũng của Viễn Châu có câu:
Hò ơi…
Lòng con thảo như giọt sương hạt bụi
Công mẫu từ như ngọn núi thái sơn
Không cha không mẹ…
Hò ơi…
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
Theo các nhà nghiên cứu Năm Hưng, Trần Hữu Trang và
Trương Bỉnh Tòng thì có sáu loại Lý: Lý vọng phu, Lý giao duyên, Lý
con sáo hay là Lý ngựa ô Nam
hay là Lý ngựa ô Bắc, Lý Phước Kiến, Lý thập tình, Lý
Huế. Riêng ở Nam Bộ, số điệu Lý rất lớn phải kể đến hàng trăm, các bài lý
tuy ngắn nhưng lại là một hoàn chỉnh về lời ca giai điệu và tiết tấu. Lý được
đưa vào đờn ca Tài tử rất nhiều, đặc biệt là trong những bản Vọng cổ.
Các bài lý được sử dụng thường là những bài mang âm
hưởng buồn, nói lên sự sầu tư, mong nhớ quê nhà và những người thân yêu ngoài
chiến trận. Nhà âm nhạc học Gaston Knops thấy rằng, trong vài điệu nhạc miền
Nam cái trạng thái bị đè ép mà nhân dân Việt phải chịu, và trong trạng thái bị
trị ấy chỉ có một phương tiện để giãi bày tâm hồn mình: đó là âm nhạc. Ông thấy
trong những tiếng than ấy những tình cảm của người Việt, những nỗi vui thì ít
mà những nỗi buồn thì nhiều. Cho nên những điệu hát ấy thường làm nhỏ những
giọt lệ mà người nghe đã phải nuốt tự đời nào.
Thể thơ truyền thống của dân tộc ta: lục bát, song
thất lục bát… được sử dụng với một tần số cao trong phần Ngâm của bài ca Tài
tử. Trong bài Nỗi niềm riêng của Minh Lời có cả lục bát:
Nhà tôi ở cạnh nhà nàng
Cách con rạch nhỏ cách hàng dừa tơ
Tôi thường để ý thầm mơ
Thầm mong duyên thắm, đón chờ trúc mai.
Và song thất lục bát:
Ba tháng đầu thơ đi thơ lại
Sáu tháng sau trông mãi tin nàng
Để lòng tôi phải miên man
Băn khoăn trăn trở hỡi nàng có hay.
Các thể thơ của văn học thành văn cầu
kỳ, gọt giũa bao nhiêu thì thể thơ dân tộc lại bình dị, dân dã bấy nhiêu
nhưng không kém phần sâu lắng, thi vị, bởi chất chứa bên trong những giai điệu
nhẹ nhàng ấy là cả một nỗi niềm thổn thức khôn nguôi của kiếp nhân sinh.
Bên cạnh đó, những người viết nhạc Tài tử còn lấy đề
tài từ các giai thoại, sự tích, truyền thuyết. Đó là giai thoại về Ông già Ba
Tri, sự tích về ông Táo, bà Táo, hay câu chuyện thần thoại về Ngưu Lang - Chức
Nữ… Tất cả đều được khai thác và đưa vào bài nhạc Tài tử một cách tài tình.
Giọng hát, lời ca bây giờ không còn là giọng hào sảng, hùng dũng nữa mà ở một
âm vực trầm, thấp như những lời thủ thỉ, tâm sự. Nội dung không mang tính thời
sự, không bàn những vấn đề lớn lao của lịch sử mà chỉ là những vấn đề xoay
quanh cuộc sống lao động hằng ngày với những khó khăn, vất vả nhưng đầy thi vị.
Vì đa số là những sáng tác ngẫu hứng khi có tâm trạng
nên lời ca không có sự trau chuốt, gọt giũa mà mộc mạc, đơn sơ. Nhờ đặc tính
dân dã này mà đờn ca Tài tử được rất nhiều người yêu thích đặc biệt là tầng lớp
công - nông - binh, họ truyền nhau những bài ca ấy và thuộc nằm lòng để rồi
những khi nông nhàn, rảnh rỗi họ quây quần lại đàn hát cho nhau nghe một cách
say sưa, vui vẻ. Xét riêng về Vọng cổ, GS.TS Trần Văn Khê đã có nhận xét rất
thích đáng:
Chân phương hoa lá trong bài Vọng cổ đã được áp dụng
một cách thần tình. Hoa chẳng những đẹp mà còn thơm. Lá chẳng những xanh mà còn
tươi. Thành ra bản Vọng cổ có cái tươi mát, cái đẹp đẽ, có cái phong phú, cái
dồi dào mà sức sống, sức đóng góp của tất cả những người nghệ sĩ, từ đứa con
của bác Sáu Lầu sáng tạo, nuôi dưỡng cho nó lớn lên mạnh mẽ, nó đẹp đẽ.
Việc phân biệt rõ tính bác học và tính bình dân trong
lời ca để mọi người có cái nhìn tổng quan hơn, nắm được rõ hơn đặc trưng cơ bản
ấy của nhạc Tài tử. Trên thực tế, tính bác học và tính bình dân của đờn ca Tài
tử không tách biệt nhau mà liên kết với nhau một cách chặt chẽ trong một bài
nhạc. Các nhà Nho xưa khi viết lời ca cũng biết vận dụng ca dao, tục ngữ và thể
thơ truyền thống vào tác phẩm của mình. Hay những người nông dân Nam Bộ, ngoài
việc lấy chất liệu sẵn có từ dân gian như: hò, vè, lý, hát, nói… thì họ cũng sử
dụng các tuồng tích xưa vào bài ca. Chính điều đó làm cho đờn ca Tài tử vừa
bình dân, vừa cao cấp, vừa gần gũi, vừa thâm sâu. Lời ca quyện chặt tiếng đàn,
tiếng nâng đỡ lời ca mang theo tâm hồn của người nghệ sĩ hòa
cùng tâm trạng, cảm xúc của người nghe. Việc làm sáng rõ những đặc điểm nổi bật
của Đờn ca Tài tử cũng giúp ta tìm ra mối quan hệ lâu đời giữa Đờn ca Tài tử
với văn học dân gian và văn hóa dân tộc.
IV. Không gian Đờn ca Tài tử
Chưa có một loại hình nghệ thuật nào mà môi trường
diễn xướng phong phú và đa dạng như Đờn ca Tài tử. Nó có thể được chơi ở mọi
không gian và thời gian. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì Đờn ca Tài tử cũng
vẫn thể hiện được cái độc đáo của riêng nó. Nghệ nhân dân gian Bạch Huệ, với
trên 50 năm ca hát, cho biết không gian chơi đờn ca Tài tử có thể là bất kỳ nơi
đâu như trong xóm ấp, trong gia đình chứ không cần phải là một nơi sang trọng.
Nhưng không gian đó bắt buộc phải không ồn ào, xô bồ; lý tưởng nhất là hát ca
trên ghe, xuồng trên sông vào đêm trăng. GS.TS Trần Văn Khê và nhạc sĩ Tấn Nhì
cũng nhấn mạnh rằng: Đờn ca Tài tử không cần phải có đông người chơi, đông khán
giả. Chỉ cần đôi ba người tụ lại là đã thành một buổi đờn ca. Nhưng cái sự chơi
đờn ca này đòi hỏi phải có sự tri âm, đồng điệu, say mê giữa những người chơi
để ra chất tài tử tài hoa.
1. Đờn ca Tài
tử trong không gian sinh hoạt
- Đờn ca Tài tử trên sông nước
Địa hình Nam Bộ chủ yếu là kênh rạch, nên phương tiện di chuyển thường là ghe, đò, xuồng, thuyền … Giữa
dòng sông bao la, với từng cơn gió thổi từ lòng sông lên mát rượi, ánh trăng
vằng vặc trên đầu và hai bên, tiếng dừa nước xạc xào, để thưởng thức khung cảnh
trữ tình này, những người chèo ghe, chèo thuyền thường neo lại, ngồi quây quần
hát với nhau. Tùy tâm trạng mà họ hát những bản Tài tử vui
hay buồn. Những buổi Đờn ca Tài tử trên sông nước cũng là dịp thuận lợi để
những chàng trai, cô gái bày tỏ tình cảm với nhau.
Miền sông nước có một loại xuồng phổ biến là xuồng câu
tôm, những lúc rảnh rỗi người dân dong xuồng đi câu tôm. Họ thả cần ở chỗ dòng
nước chảy nhẹ, đến khi nước đứng thì để cần lại lên xuồng bắc bếp nướng vài con
tôm, thêm một ít rượu đế, trên xuồng lúc nào cũng để sẵn vài ba cây đàn. Các
chiến hữu vừa nhấm nháp tôm mới câu vừa đàn hát. Khi trong người có hơi men, họ
hát rất say sưa và cuộc vui kéo dài tới khi nào ai nấy mệt thì về nhà ngủ, hẹn
hôm sau lại gặp nhau.
Ở An Giang, Cần Thơ, Tiền Giang còn có một loại thuyền
gọi là Thuyền văn hóa, có chức năng như một Nhà văn hóa lưu động. Trên thuyền cũng có những buổi sinh hoạt theo
chuyên đề. Trong quyển Đờn ca Tài tử trong đời sống văn hóa
cư dân Tây Nam
Bộ, TS Mai Mỹ Duyên có viết:
Các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian trên sông
hẳn đã tác động đến việc sử dụng các loại ghe tàu làm phương tiện vận chuyển
của những gánh cải lương đầu tiên ở Tiền Giang như: gánh thầy Hai Cu, gánh thầy
Năm Tú và gánh Huỳnh Kỳ.
Mô hình đó phù hợp với địa hình sông nước ở miền Tây
Nam Bộ và còn thể hiện được sự linh động, sáng tạo của con người nơi đây.
Có một loại xuồng với kích cỡ nhỏ, chỉ đủ một hoặc hai
người ngồi gọi là xuồng ba lá. Nó dễ dàng len lỏi ở những chỗ đông đúc, nguy
hiểm. Còn gì buồn hơn khi một mình chèo xuồng trên những quãng sông rộng, thấy
thân phận mình nhỏ bé và cô độc quá. Thế là cất lên vài ba câu Vọng cổ mà mình
thuộc nằm lòng như để xua tan cái không khí hoang vắng, cô liêu. Không bạn hữu,
không ban nhạc, không ai cả thì họ hát cho “mình ên” nghe, vì người nghệ sĩ là
người thưởng thức tác phẩm của mình trước tiên.
Đờn ca Tài tử trên sông là một nét đặc thù của miền
sông nước, những buổi đờn ca với nhau góp phần làm tăng tình thân ái giữa những
bạn ghe, bạn thuyền từ đấy họ thông cảm và động viên nhau trên bước đường lữ
khách tha phương.
- Đờn ca Tài tử tại nhà riêng
Nhà của người Nam Bộ xưa rất đơn giản, phù hợp với
cuộc sống nông nghiệp và lối sống rày đây mai đó. Trong nhà thường có một bộ
ván ngựa, được xem là một vật có giá trị. Theo TS. Phan Thị Yến Tuyết trong
quyển Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng Đồng bằng sông Cửu
Long:
Xưa kia, cách bài trí phòng khách ở nhà trên của người
Việt Đồng bằng sông Cửu Long là đặt ba bộ ván ngựa ở ba gian phía trước gian
thờ. “Bộ ngựa” là từ ở Nam
Bộ chỉ bộ ván gỗ tốt, có kích thước to, chân đóng kiểu chân quỳ.
Đờn ca Tài tử ngày ấy chỉ có ca, chưa có điệu bộ nên cả
ban nhạc và người hát đều ngồi trên bộ ván ngựa mà đờn mà ca với nhau, bà con
xung quanh kéo nhau lại xem. Có khi đông quá họ kéo nhau ra ngoài sân trải
chiếu ngồi, thậm chí hành lang cũng có thể làm nơi để tổ chức đờn ca. Những
đoạn xuống “Xề” mùi mẩn người ca nhận được tràng vỗ tay,
hưởng ứng nhiệt tình càng làm tăng hứng thú. Có người nắm vững kiến thức về
nhạc lý liền sáng tác “sống” một bài và biểu diễn ngay để mọi người thưởng thức
tạo nên sự hấp dẫn cho buổi chơi. Ban ngày họ là những bác nông dân, anh thợ
lái máy cày hay chị thợ may nhưng buổi tối họ lại là những ca sĩ, nghệ sĩ tài
hoa.
Ngoài ra còn có những buổi sinh hoạt đờn ca ngay trong
nhà các nghệ nhân. Buổi sinh hoạt ấy chỉ diễn ra ở những gia đình có truyền
thống lâu đời về Đờn ca Tài tử. Theo GS.TS Trần Văn Khê thì cứ mùng hai Tết,
gia đình, dòng họ ông lại tập trung để biểu diễn Đờn ca Tài tử như một buổi họp
mặt đầu năm. Bên cạnh đó, nó cũng là một nghi thức như người ta khai bút đầu
năm hay người nông dân bổ những nhát cuốc đầu tiên trên đồng ruộng. TS. Mai Mỹ
Duyên còn cho biết:
Các buổi hòa đờn tại gia cũng là
cách để rèn luyện tay nghề vừa để tiêu khiển thời gian nhàn rỗi. Hình
thức này vẫn duy trì cho đến hiện nay ở các gia đình Tài tử ở vùng Tây Nam Bộ.
- Đờn ca Tài tử trong các lễ hội, lễ tiệc
Do đặc điểm nước ta là một nước nông nghiệp, phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên nên cả nước nói chung và ở Nam Bộ nói riêng có rất nhiều
lễ hội. Mục đích là để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng
bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngày trước, phần lễ rất được chú trọng,
nhưng dần dần, cuộc sống mở ra, con người cũng thay đổi quan niệm, họ bắt đầu
chú ý đến phần hội nhiều hơn. Đờn ca Tài tử vì thế có điều kiện thể hiện mình
trước đông đảo người xem. Đây cũng là dịp để các ban đờn ca Tài tử thi thố tài
năng từ đó có thể học hỏi lẫn nhau để hoàn thiện hơn.
Trong quyển Nghệ thuật sân khấu Việt Nam của
Trần Văn Khải có bàn đến việc đờn ca Tài tử biểu diễn trong các lễ tiệc:
Các ban Tài tử đờn ca trong các cuộc lễ tại tư gia,
tân hôn, thăng quan, giỗ quảy … nhưng không bao giờ có đờn
ca trên sân khấu hay trước công chúng.
Thời kỳ manh
nha, ban nhạc Tài tử thường được mời biểu diễn trong các đám tang. Ban nhạc Lễ
lãnh đám từ lúc vào đến nửa đêm. Sau đó bạn nhạc Tài tử lãnh tiếp từ nửa đêm
cho đến sáng, lúc đó ai về thì về, còn ai yêu thích ca hát thì ngồi lại cùng
ban nhạc. Sau khi nhóm đờn cây tách ra khỏi dàn nhạc Lễ thì Đờn ca Tài tử ít
biểu diễn trong đám tang mà chủ yếu là đám cưới, đám giỗ hay đám sinh nhật.
- Đờn ca Tài tử trong quán
Ở các quán ăn, chủ quán thường mời ban nhạc đến ngồi
cùng bàn với khách, đàn ca giúp vui. Khách thích bài gì thì đờn, hát bài đó,
đến lúc khách ngà ngà say thì chính khách lại là người hát ban nhạc chỉ đệm
đàn.
Để tránh cuộc đàn áp của thực dân Pháp, những người
nông dân đã chấp nhận rời bỏ làng quê lên thị trấn, thị xã làm ăn nhưng vẫn
không nguôi ý chí đánh giặc trả thù nhà. Họ làm nhiều ngành nghề khác nhau,
trong đó cắt tóc là nghề mà được nhiều người lựa chọn vì nó thể hiện được sự
khéo léo, sáng tạo và tiệm cắt tóc cũng là một địa điểm để các anh em trao đổi
thông tin dưới hình thức là những buổi đàn ca. Trong tiệm thường có vài ba cây
đàn để khách có thể chơi trong lúc ngồi chờ tới lượt mình. Những lúc rảnh rỗi,
thợ cắt tóc là nghệ sĩ với những ngón đàn lão luyện. Nhưng khi có khách lại trở
về vai trò khán giả vừa làm vừa nghe những vị khách của mình chơi. TS. Mai Mỹ
Duyên có ghi:
Ông Sáu Hoanh - một nghệ nhân chơi đàn khá giỏi của
thị trấn Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, sở trường của ông là đàn tranh nhưng ông
cũng sử dụng thành thạo ba loại nhạc cụ khác (kìm, sến và ghi-ta). Ông hớt tóc
rất khéo, có ngón đờn hay nhưng không có con, cháu nối nghiệp ca cầm. Ngón đờn
tài hoa đã theo ông xuống lòng đất lạnh! Khi ông mất, tiệm hớt tóc đóng cửa,
các bạn tài tử cũng tan rã dần.
- Đờn ca Tài tử giữa cảnh trời trăng mây nước
Còn gì thú vị bằng những buổi trưa hè nóng bức, mang
đàn ra ngoài vườn hay ngồi dưới mấy gốc me, gốc xoài mà đàn hát với nhau. Gió
mát lồng lộng, người đờn người ca thư thái, hiền hòa.
Đây cũng là điểm khác biệt giữa miền Đông và miền Tây
Nam Bộ. Miền Đông do địa hình nhiều đồi dốc, vì thế họ phải làm lụng vất vả mới có cái ăn, cuộc sống luôn tất bật. Họ ít có thời gian ngồi
nói chuyện hay ngồi hò hát với bạn bè. Ngược lại, miền Tây với sự ưu đãi của
thiên nhiên địa hình bằng phẳng, nhiều kênh ngòi, phương
tiện đi lại phong phú. Họ chỉ cần làm một buổi là đã đủ ăn, tôm cá có sẵn, cuộc
sống an nhàn, ung dung, tự tại. Những lúc rảnh rỗi họ lấy đờn ra làm vài bản
vui với nhau. Trên đường đi cấy, đi cày hay gặt lúa, họ cũng ngân vài câu vọng
cổ để ngày mới thêm nhiều niềm vui. Những chàng trai, cô gái chịu thương chịu
khó thường để ý nhau và buông lời tán tỉnh bằng những câu ca ngọt lịm. Có thể
nói người dân Nam Bộ đàn hát quanh năm, điều đó giúp họ thấy cuộc sống yên
bình, tươi vui và năng suất lao động cao hơn.
- Đờn ca Tài tử trong hoạt động du lịch
Nhận thấy tầm quan trọng cũng như tính hấp dẫn của Đờn
ca Tài tử, nhiều công ty du lịch đã thuê các ban Tài tử cùng đồng hành trong
chuyến đi để ca cho các khách du lịch nghe. Và đó cũng là tiết mục thu hút được
sự chú ý của các khách du lịch trong và ngoài nước.
Bến Tre hiện nay, có nhiều khu du lịch với nhiều ban
Đờn ca Tài tử. Không có sân khấu, ban nhạc ngồi giữa, khán giả ngồi xung quanh
rất gần gũi, thân tình. Người nghe không phải trả tiền, nhưng gần đó có để một
cái dĩa, nếu ai muốn thưởng riêng cho bạn nhạc thay cho lời cảm ơn vì những cảm
xúc họ mang đến thì bỏ tiền vào cái dĩa ấy. Trang phục biểu diễn cũng được đầu
tư kỹ lưỡng, thường là mặc áo dài. Hoạt động này rất hữu
ích vừa giúp các nghệ sĩ có điều kiện trang trải cuộc sống và mua sắm dụng cụ
cho ban nhạc. Bên cạnh đó, nó còn có tác dụng lớn lao là giúp Việt Nam có điều
kiện quảng bá loại hình nghệ thuật truyền thống cho bạn bè các nước thưởng
thức. Đó là đứng trên khía cạnh những buổi biểu diễn mang tính nghệ thuật của
những người có tâm với nghề chứ không phải vì những mục đích bất chính nào
khác.
2. Đờn ca Tài
tử trên sân khấu
Khi đờn ca Tài tử ngày càng phát triển và nhận được sự
hưởng ứng nhiệt tình của khán giả, nó nhanh chóng lan rộng thành một phong
trào, như một làn sóng cuốn trôi những ai đam mê và yêu thích nó. Nếu đã nghe
họ sẽ ghiền mà đã ghiền thì không thể nào dứt ra được.
Nguyên nhân Đờn ca Tài tử chuyển từ hình thức ngồi
trên bộ ván ngựa để đứng biểu diễn trên sân khấu là sau khi ban Tài tử của ông
Nguyễn Tống Triều được mời sang Pháp biểu diễn năm 1910. Trong Nghệ thuật
sân khấu Việt Nam,
Trần Văn Khải kể:
Nghe được cách cho “Đờn ca trên sân khấu”, Thầy Hộ,
chủ rạp chiếu bóng Casino, ở sau chợ Mỹ Tho, bèn mời ban tài tử Tư Triều, đến
trình diễn mỗi tối thứ tư và thứ bảy trên sân khấu, trước khi chiếu bóng, được
công chúng hoan nghinh nhiệt liệt.
Cũng trong quyển này ông đã mô tả:
Cách chưng dọn sân khấu còn đơn sơ. Cái màn bạc dùng
làm bối cảnh (fond) kế đó có lát một bộ ván, trước bộ ván có để một cái bàn chưn
treo. Hai bên sân khấu có để cây kiểng, xem rậm đám và khán giả có cảm giác
đứng trước một cái phòng khách hạng trung lưu. Cách bài trí sân khấu này tuy
đơn giản, nhưng nó gợi cho các nhà dàn cảnh cải lương sau này những ý niệm về
việc trang hoàng sân khấu. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván và mặc quốc phục xem
nghiêm trang.
Trong Sân khấu Cải lương, Nguyễn Thị Minh Ngọc
và Đỗ Hương cũng có viết:
Vào năm 1915, Nguyễn Tống Triều và ban nhạc Tài tử ở
Mỹ Tho lên trình diễn ở nhà hàng Cửu Long Giang cạnh chợ Sài Gòn. Đây là lần
đầu tiên nhạc Tài tử lên sân khấu chuyên nghiệp ở Sài Gòn.
Còn Vương Hồng Sển trong Hồi ký
50 năm mê hát thì nói theo sự hiểu biết của ông:
Năm 1915 trở về trước, tại miền Nam, tài tử còn ca
kiểu “độc thoại”.
Năm 1916, có ca kiểu "đối thoại" (ca ra bộ)
Đêm 16 tháng 11 năm 1918, tại Rạp Hát Tây Sài Gòn, có
diễn tuồng Pháp - Việt nhứt gia (tức Gia Long tẩu quốc) đánh dấu thời kỳ phôi thai
của Cải lương.
Cho đến nay, các mốc thời gian vẫn chưa được xác định
nhưng tất cả những sự kiện đó nói lên rằng, đờn ca Tài tử đã thoát khỏi hình
thức sinh hoạt dân dã để trở thành một hoạt động mang tính chuyên nghiệp khi
đứng trên sân khấu. Người hát không ngồi yên một chỗ như lúc trước mà họ đứng
dậy đi qua đi lại và còn có thêm những điệu bộ trong lúc hát. Điều này diễn ra
vài năm sau khi ban nhạc của ông Nguyễn Tống Triều được mời sang Pháp biểu
diễn. Phải chăng việc giao lưu, tiếp xúc với nền văn hóa
mới lạ của phương Tây đã làm các nghệ nhân thay đổi phong cách biểu diễn của
mình để đờn ca Tài tử trở nên hấp dẫn hơn?
Việc đổi mới nhưng không làm mất đi bản sắc dân tộc
đã đem lại một sức sống mới cho đờn ca Tài tử và đây cũng là bước trung
gian để đờn ca Tài tử phát triển thành Cải lương, biểu diễn trên những sân khấu
chuyên nghiệp như ngày nay. Và theo TS. Mai Mỹ Duyên thì:
Sau năm 1975, Đờn ca Tài tử được đưa lên sân khấu biểu
diễn trong các cuộc liên hoan, hội thi từ cơ sở đến khu vực. Hầu hết 12 tỉnh
Tây Nam Bộ, đờn ca Tài tử dưới hình thức liên hoan, hội thi đã trở thành hoạt động
định kỳ (một hoặc hai năm tổ chức một lần). Trong số các hình thức hội, nhóm,
các câu lạc bộ đờn ca Tài tử hiện đang là mô hình hoạt động
có hiệu quả (ở các nhà văn hóa xã, phường) trong các hình
thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở vùng Tây Nam Bộ.
Ngày nay, với mục đích lưu giữ, bảo tồn và phát triển
Đờn ca Tài tử ngày càng được mở rộng hoạt động. Ở trong nước, nhiều nhóm, câu
lạc bộ được thành lập, sinh hoạt và biểu diễn định kỳ, phục vụ miễn phí cho
khán giả đến xem. Ở nước ngoài, đờn ca Tài tử nhận được nhiều lời mời biểu
diễn. Đến nay mức độ chuyên nghiệp đã đạt đến đỉnh cao nhưng Đờn ca Tài tử vẫn
không ngừng cải biến để ngày càng hay và hấp dẫn hơn nhằm đáp ứng thị hiếu thẩm
mỹ ngày càng cao của khán giả trong nước và quốc tế. Trong tương lai, Đờn ca
Tài tử hứa hẹn sẽ có những bước tiến xa hơn nếu nó luôn nhận được sự yêu mến
của khán thính giả và ý thức bảo vệ giữ gìn để nó không trở thành tạp nham, lai
căng. Đờn ca Tài tử tự hào khi trở thành đặc trưng của dân tộc Việt Nam nói chung
và miền sông nước Nam Bộ nói riêng.
_________________________________________________________________________________
Nguồn:
http://hngphsa.blogspot.com/2011/08/on-ca-tai-tu-nam-bo-qua-trinh-hinh.html
http://hngphsa.blogspot.com/2011/08/on-ca-tai-tu-nam-bo-qua-trinh-hinh_19.html
http://hngphsa.blogspot.com/2011/08/on-ca-tai-tu-nam-bo-qua-trinh-hinh.html
http://hngphsa.blogspot.com/2011/08/on-ca-tai-tu-nam-bo-qua-trinh-hinh_19.html
http://hngphsa.blogspot.com/2011/08/on-ca-tai-tu-nam-bo-qua-trinh-hinh_20.html
http://hngphsa.blogspot.com/2011/08/on-ca-tai-tu-nam-bo-qua-trinh-hinh_25.html
4 nhận xét:
Lâu quá ghé ngôi nhà thăm một người quen . Nhân dịp năm mới Tâm chúc anh hưởng một năm mới an khang Thịnh vượng nhé. Thân
Cảm ơn Minh Tâm đã ghé thăm. Chúc một năm mới an lành hạnh phúc nhé. Thân
Chúc anh có nhiều vui vẻ!
Cảm ơn đã ghé thăm. Chúc vui
Đăng nhận xét